20/8/15
Nguồn gốc và ý nghĩa giáo dục của lễ Vu Lan
Posted by Unknown on 18:42
Trong
tâm thức mỗi người dân Việt Nam lễ Vu Lan (nhằm ngày 15/7 âm lịch) từ
lâu đã thành một ngày trọng đại, không thể thiếu được trong hệ thống các
hoạt động văn hoá tâm linh nói chung, văn hoá Phật giáo nói riêng.
Chính vì vậy, trong bài viết này người viết xin được lần lượt đi vào
giải quyết hai vấn đề đó là: Nguồn gốc và nghĩa giáo dục của lễ Vu Lan.
1. Nguồn gốc của lễ Vu Lan.
Vu Lan hay Vu Lan bồn có nguồn gốc
từ chữ phạn Ullambana, dịch sang tiếng Hán ngữ là Giải đảo huyền, tức là
gỡ khỏi nạn treo ngược–theo nghĩa tiếng Việt. Mà hiểu rộng ra là nhờ
vào sự thành tâm chú nguyện của Thập phương chư Tăng mà chúng ta có thể
cứu được cha mẹ, tổ tiên thoát khỏi cảnh tội đồ, cầu nguyện cho chúng
sinh được siêu thoát, khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Theo Phật thoại: Tôn giả Mục Kiền
Liên là một trong số ít đệ tử xuất chúng của Ðức Phật. Ngài có quyền
pháp vô biên, nhưng không vì thế mà Ngài quên đi nghĩa vụ của một người
con đối với cha mẹ. Một lần, dùng tuệ nhãn quan sát khắp “bốn phương tám hướng”
Tôn giả Mục Kiền Liên thấy mẹ mình (là bà Thanh Ðề) đang chịu cảnh tội
đồ trong ngục A tỳ, thân thể gầy héo, xanh xao, chỉ còn da bọc xương,
khổ đau khôn xiết. Dù biết đó là do kết quả của thói tham lam, độc ác,
sự dối trá từ thuở sinh thời mẹ đã gây nên, nhưng Ngài vẫn không khỏi
thương xót. Dùng pháp thuật của mình, Tôn giả Mục Kiền Liên mang cơm
dâng lên mẹ. Nhưng, do nghiệp quá lớn nên bát cơm bà Thanh Ðề cầm trên
tay bỗng hoá thành than đỏ. Chứng kiến cảnh tượng ấy, Ngài rất đau lòng,
về bạch lại với Phật, mong Ðức Phật cứu vớt để linh hồn mẹ mình được
siêu thoát. Cảm động trước tấm lòng hiếu nghĩa của Tôn giả Mục Kiền
Liên, Ðức Phật đã chỉ cách để Ngài có thể cứu vớt được mẹ ra khỏi cảnh
đoạ đầy. Ðức Phật nói: “Ông
tuy quyền phép vô biên, lại hiếu thảo hơn người, tấm lòng của ông làm
cảm động cả trời đất nhưng tội ác của mẹ ông quá nặng, một mình ông
không thể cứu được mẹ. Ðến ngày rằm tháng bẩy, Chư Phật hoan hỉ, Chư
Tăng tự tứ, hãy sửa soạn lễ vật cúng Dàng, thành tâm thỉnh cầu Chư Tăng
chú nguyện thì mẹ ông mới có thể siêu thoát được”.
Theo lời Phật dạy, nhằm ngày Rằm
tháng Bảy, Tôn giả Mục Kiền Liên lập bồn Vu Lan (chậu đựng đồ lễ cúng
dàng), thỉnh mời Chư Tăng đến chú nguyện. Nhờ đó bà Thanh Ðề mới được
siêu thoát. Các vong linh khác cũng nhờ phúc lành của Chư Tăng mà được
siêu thoát. Noi gương hiếu đễ của Tôn giả Mục Kiền Liên, hàng năm, cứ
đến ngày Rằm tháng Bảy các tín đồ, Phật tử khắp nơi lại tưng bừng tổ
chức ngày lễ Vu Lan với tín tâm cầu cha mẹ, ông bà, tổ tiên mình sẽ được
thoát khỏi tội đồ.
2. Ý nghĩa giáo dục
Ngày lễ Vu Lan là dịp “nhắc nhở” các
thế hệ con cháu chúng ta nhớ tới công ơn dưỡng dục sinh thành của cha
mẹ, ông bà, tổ tiên cũng như những đóng góp to lớn của các anh hùng dân
tộc, những người có công với đất nước. Ðồng thời giúp chúng ta tiếp cận
được những ý nghĩa giáo dục đầy nhân bản của văn hoá Phật giáo đó là
“Từ, bi, hỷ, xả”, “vô ngã, vị tha”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ
người trồng cây”...
Không riêng gì với mỗi Phật tử chúng
ta, lễ Vu Lan mở ra cả một mùa báo ân, báo hiếu. Báo hiếu ở đây là báo
hiếu đối với cha mẹ, không chỉ ở kiếp này mà còn ở nhiều kiếp khác, bởi
Phật giáo luôn nhìn nhận con người trong mối tương quan nhân quả, trong
vòng nghiệp háo luân hồi. Và cũng chính vì nhìn nhận dưới góc độ đó mà
hết thảy mọi chúng sinh trong xã hội đều có mối quan hệ với nhau. Ðiều
này dẫn đến việc chúng ta phải mở rộng phạm vi báo hiếu ra tất cả chúng
sinh. “Phổ độ chúng sinh”, “cứu nhân, độ thế”, “xá tội vong nhân” nhờ
vậy mà được hình thành. Mà như tác giả Vi Phương Anh đã nhận định thì:
“... người Việt cử hành lễ Vu Lan nhằm giải tội cho người chết, cầu phúc
cho người sống. Ðiều đặc biệt đáng chú ý là ngoài việc cầu siêu cho gia
tiên, người Việt còn có lễ cầu siêu cho các cô hồn, u hồn của người khi
tại thế đã thất cơ lỡ vận, phiêu bạt bơ vơ, không nơi nương tựa và chịu
nhiều oan trái trong xã hội... bằng việc đọc bài văn tế cô hồn trong
khi hành lễ. Vậy là tục cúng các cô hồn của người Việt đã giao hoà với
tinh thần cứu khổ cứu nạn, cứu nhân, độ thế của nhà Phật làm cho lễ Vu
Lan thêm phần phong phú và sống động”. Thật đúng là:
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi
Muốn nhờ Đức Phật từ bi
Giải oan cứu độ, hồn về Tây phương.
Và
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi
Ðàn chẩn tế đây lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén hương
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên.
Báo hiếu là sự biểu hiện phẩm hạnh
dạo đức của mỗi con người chúng ta. Trong xã hội, luôn luôn tồn tại hai
hoạt động mang ý nghĩa dường như trái ngược nhau song lại gắn bó chạt
chẽ với nhau đó là làm ơn (ân) và trả (báo) ơn (ân). Người xưa đã đạy: “Có
hai điều dứt khoát phải làm, một là phải quên đi khi mình giúp đỡ người
khác, hai là phải ghi nhớ, phải trả ơn khi người khác giúp mình”.
Hành động làm ơn và trả ơn là không thể thiếu được trong bất cứ xã hội
nào bởi trong cuộc sống con người đâu có tồn tại một cách độc lập, mà họ
luôn tồn tại trong mối tương quan, trong sự gắn kết giữa các cá nhân
với các chủ thể khác. Mác từng nói: “Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”,
do đó, con người nếu đã hiếu nghĩa với cha mẹ, họ hàng thì không thể
không yêu quý quốc gia; thầy cô, bè bạn; và mở rộng ra là với toàn thể
chúng sinh, đồng bào. Cùng với báo ân cha mẹ, ba điều này hợp thành khái
niệm: “Tứ ân” trong Phật giáo. Ðó chính là:
–Ơn cha mẹ: là ơn sinh thành dưỡng dục.
–Ơn thầy cô: là ơn dạy dỗ những kiến thức, những điều hay, lẽ phải.
–Ơn quốc gia xã hội: là ơn đảm bảo, giữ gìn môi trường sống hoà bình, ổn định.
–Ơn chúng sinh, đồng bào: là ơn những người đã sản xuất ra của cải vật chất để cho chúng ta tồn tại, phát triển.
Không ai có thể nói rằng trong bốn
ân này, anh ta chỉ chịu ân này còn ân khác thì không. Như trên đã trình
bày, con người luôn tồn tại trong mối tương quan với các cá nhân khác,
là tổng hoà của nhiều mối quan hệ nên nhất thiết phải chịu cả bốn ân
này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài viết ngắn, không cho phép có thể
đi vào phân tích cả bốn ân này, nên, người viết chỉ tập trung vào chữ
hiếu trong trường hợp đầu tức là hiếu với cha mẹ, ba trường hợp còn lại
sẽ đề cập tới khi có điều kiện.
Ðạo Phật là đạo hiếu, lấy tình
thương yêu con người (và cả muôn loài) làm đầu. Tình thương này bắt
nguồn từ tình thương cha mẹ, sau đó mới mở rộng ra thành tình người,
tình nhân loại. Chính vì vậy, trong các kinh điển của mình Ðức Phật dạy
về đạo hiếu nhiều không kể xiết. Nào đời nay đã có hiếu. Nào kiếp trước
cũng đã có hiếu. Nào hiếu về cung dưỡng cha mẹ. Nào hiếu về độ siêu cho
cha mẹ.... Do đó, muốn tu theo Phật giáo phải lấy chữ hiếu làm đầu bởi
vì kinh Phật đã dạy: “Phụng thờ cha mẹ là phụng thờ Ðức Phật”. Cụ thể hơn, Ðức Di Lặc đã có bài kệ rằng:
Trên nhà có hai pho tượng Phật
Thương cho người đời không biết mà.
Tượng ấy chẳng dùng vàng son phủ
Cũng chẳng phải gỗ mít tạc ra.
Tượng ấy chính là cha với mẹ
Chính là Di Lặc và Thích Ca
Nếu cúng dàng được hai tượng ấy
Còn phải cầu công đức đâu xa.
Và vì cha mẹ là người sinh ra ta,
nuôi nấng dạy dỗ chúng ta từ thuở ấu thơ cho đến khi về già. Công lao đó
của cha mẹ thật bao la, tựa non, tựa bể. Chính vì vậy, để phần nào đền
đáp lại cái ơn nghĩa đó, chúng ta “Một lòng thờ mẹ, kính cha; Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Ở đây sở dĩ nói phần nào bởi vì theo kinh Phật: “Trên thế gian này, công ơn cha mẹ là điều to lớn nhất”. Chính Đức Phật đã từng nhiều lần dạy: “Này các Tỳ kheo, có hai người mà ta không thể trả ơn đó là chính là cha và mẹ”. Với ơn nghĩa sinh thành ấy, chúng ta dù có “trăm nghìn muôn kiếp tán xương róc thịt ra để phụng dưỡng cha mẹ cũng vẫn chưa đền đáp được”.
Sự hiếu nghĩa của con cái đối với
cha mẹ không chỉ được thể hiện trong sự cung phụng về vật chất mà còn
trong lĩnh vực tinh thần. Cha mẹ cần tình cảm và sự chăm sóc của con
cái: “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Vì thế, bên cạnh việc lo chu đáo “miếng cơm, manh áo” cho cha mẹ, chúng ta cần phải “sớm viếng, tối thăm”, trò chuyện, vấn an cha mẹ để cha mẹ thật sự vui vẻ an hưởng tuổi già. Nhất là khi cha mẹ đau yếu, phải “rước
thầy, đổi thuốc: hết lòng chăm sóc từ miếng ăn, nước uống, trên sắc mặt
lúc nào cũng vui tươi, cầu cho bệnh chóng khỏi. Bổn phận làm con, làm
được như thế, gọi là báo hiếu trong muôn một”. Cùng một quan điểm như vậy, từ hơn 2500 năm truớc Ðức Khổng Tử cũng đã từng dạy: “Ðời
nay thấy ai nuôi dưỡng được cha mẹ thì khen là có hiếu. Nhưng chó, ngựa
cũng được nuôi dưỡng. Vì thế nếu nuôi cha mẹ mà không kính trọng thì
khác gì nuôi thú vật”. Hoặc như kinh Lễ cũng có đoạn viết: “Khi cha mẹ còn sống mà chỉ chăm chú vào việc làm giàu, không phụng dưỡng cha mẹ là không tròn đạo hiếu”. Ðức Khổng Tử còn dạy tiếp: “Có
việc thì mình giúp, có rượu, thức ăn ngon mời cha mẹ là hiếu chăng? Giữ
được sắc mặt vui vẻ khi ở chung với cha mẹ mới thật khó”.
Tuy nhiên, cũng đừng vì đặt quá chữ hiếu lên đầu mà chúng ta làm những điều “bất nhân, thất đức”
hay hùa theo cha mẹ làm những điều ác, điều xấu để làm hại người khác.
Hiếu như thế là “ngu hiếu”. Mà phải “Phát tâm học Phật, tu Phật rồi
khuyên cha mẹ biết ăn chay niệm Phật, làm các phúc thiện thì mới có thể
báo đền cân xứng với công sinh nuôi của cha mẹ như lời Phật đã dạy”. Bên
cạnh đó, cũng phải sáng suốt để vừa hiếu thuận với cha mẹ lại vừa “lợi
lạc, quần sinh”, vừa kế thừa và phát huy được những đức tính tốt của cha
mẹ lại vừa biết khuyên can cha mẹ rời xa những điều không tốt, ấy mới
là “chân hiếu”, là “trí hiếu”, là hiếu đễ thực sự như mọi người hằng
ngưỡng mộ...
Tiếc thay, trong xã hội chúng ta
hiện nay do những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường ít nhiều
đã xuất hiện lối sống thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất tầm thường
mà quên đi những giá trị truyền thống của bản sắc văn hoá dân tộc, quên
đi những nghĩa vụ thiêng liêng của con cái đối với cha mẹ. Phải thừa
nhận rằng, thực tế vẫn còn có không ít những quan niệm về đạo hiếu thật
đơn giản và lệch lạc.
Do đó, khi vận dụng vào cuộc sống đã
không mang đầy đủ ý nghĩa đích thực của nó, biến đạo hiếu trở thành một
thứ hình thức, câu nệ tầm thường, dẫn đến việc thực hành đạo hiếu chỉ
còn là trách nhiệm, là nghĩa vụ mà không xuất phát lừ đáy lòng, từ trong
tâm. Hoặc nếu không gượng ép thì cũng là thỉnh thoảng, không thường
xuyên, mà nhiều khi còn mang tính thời điểm, cơ hội, sử dụng cha mẹ như
những “công cụ” để mang lại lợi ích cho bản thân. Thật xót xa khi xã hội
còn có những đứa con bất hiếu, những “nghịch tử” đang hàng ngày, hàng
giờ ruồng rẫy cha mẹ, coi cha mẹ như gánh nặng bên mình.
Ấy vậy mà khi cha mẹ chết đi thì lại
tổ chức ma chay linh đình những để người ngoài trông vào mà nghĩ đó là
những đứa con “hiếu để”. Những “tấm gương” tày liếp đó, thiết nghĩ báo
chí đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để lên án. Nhưng, dù có viết
bao nhiêu đi chăng nữa cũng vẫn là chưa đủ nếu như chúng ta chưa hình
thành đủ các chuẩn mực đạo đức cần thiết để có thể điều chỉnh được những
hành vi “phi nhân tính” đó. Hay như bản thân mỗi con người không tự tu
dưỡng, rèn luyện nhân cách, đạo đức để có thể có một cuộc sống lành
mạnh, có ích, dời xa những cám dỗ của dục vọng...
Ðức Phật cũng chính là một tấm gương sáng về đạo hiếu. “Ðạo
hiếu này tức như Ðức Thích Ca để phụ vương ở lại mà trốn vào rừng đi
tu. Nhưng Ngài cố tu học cho đến thành Phật. Ðến nay người ta sùng bái
Ngài mà sùng bái đến cả Tịnh Phạn vương. Ngôi vua nào tôn vinh, tràng
viễn bằng”. Hay như khi Tịnh Phạn
đại vương lâm chung. Ngài đã đứng ra lo liệu mọi việc, quỳ lạy trước
vong linh cha rồi cung kính nghinh tiễn kim quan cha về nơi “an nghỉ
cuối cùng” cho trọn đạo làm con. Như vậy, đã là tạo hiếu thì các đấng
toàn năng, các bậc thánh hiền, hay người phàm trần cũng đều như nhau. Và
dù có là Ðấng Giác Ngộ cao minh với quyền pháp vô biên hay một người
dân bình thường nhất, thì với cha mẹ con cái bao giờ cũng vẫn là con
cái, vì vậy, lo lắng hậu sự cho cha mẹ phải chăng là điều không cần phải
bàn cãi gì thêm nhiều nữa.
Bấy nhiêu chưa đủ để nói lên tất cả
những điều muốn nói của bản thân người viết cũng như của toàn xã hội,
song, từ sự phân tích trên chúng ta cũng đã phần nào thấy được những ý
nghĩa giáo dục cao cả của văn hoá Phật giáo trong tiến trình hình thành
và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Nhân mùa báo hiếu chúng
ta cũng nhận thức lại những ý nghĩa đúng đắn của ngày lễ Vu Lan để có
những hành động thiết thực hơn, tích cực hơn cho gia đình và cho xã hội.
Có làm được như vậy thì mới có thể tự giải thoát được cho mình để rồi
giải thoát cho người khác.
Phát huy truyền thống nhập thế của
Phật giáo Việt Nam, chúng ta nguyện tu tập theo gương hiếu đễ của người
xưa để góp phần xây dựng một xã hội tốt lành, thực hiện “tốt đời, đẹp
đạo”.
Xin được thay cho lời kết, bằng việc mượn lời của Ni sư Thích Ðàm Hà trong bài “Cảm nghĩ về chữ Hiếu trong đạo Phật”
Thân người gốc ở mẹ cha
Trải bao cay đắng cũng là vì con
Công ơn như biển, như non
Ðạo làm con phải lo tròn hiếu tâm
Báo đền trả nghĩa ân thâm
Những điều hiếu nghĩa trọng tâm nghĩ bàn
Người ta sống ở thế gian
Bao nhiêu hưởng thụ bấy nhiêu ơn nhờ
Ơn dân, ơn nước, ơn người,
Ơn thày, ơn bạn, ơn đời giúp ta.
www.chuabuuminh.vn
Giới Thiệu Blog Tình Lam
Nơi đây giao lưu kết nối anh chị em áo lam khắp mọi nơi.
Nơi cảm nhận những cảm xúc vui buồn của dòng máu Lam.
Nơi mang đến những nét đẹp của tình lam, cùng đồng hành sát cánh với anh chị em áo lam Quốc Nội & Hải Ngoại.
Tình Lam mong càng ngày phong phú hơn với các bài viết sưu khảo từ các nơi.
Xin hãy cùng chung tay chia sẻ với Tình Lam cho vòng tay thân ái luôn mãi kết chặt tình lam.
"Mỗi người là một cành hoa bay về đây góp gió
Làm thành vườn hoa,vườn hoa Tình Lam chúng mình"
Tình Lam rộng khắp bốn phương
Kết tình huynh đệ thân thương một nhà
0 nhận xét:
Đăng nhận xét