30/7/11
Lược Sử Chùa Linh Thắng – Di Linh
Posted by Unknown on 14:01
Chùa Linh Thắng - Di Linh, tiền thân là một ngôi Niệm Phật Đường mái tranh vách ván được tạo dựng từ năm 1933 do hai cụ Trương Quang Thám và Huỳnh Duyên Quỳ vận động cư dân làm công nhân đồn điền trà và cà phê đóng góp thành lập. Vị trí sát quốc lộ 20 cách chùa Linh Thắng hiện nay 1km về hướng sài gòn. Vị trú trì đầu tiên là Thầy Thích Chánh Thiện đến từ chùa Tam Bảo tỉnh Phan Thiết.
Năm 1940 cụ Tâm Minh Lê Đình Thám Tổng Hội Trưởng Hội An Nam Phật học Trung Việt và cụ Võ Đình Dung một trong các sáng lập viên Hội An Nam Phật học tỉnh Lâm Viên đến thăm và khuyến khích thành lập Hội An Nam Phật học tỉnh Đồng Nai Thượng và hình thành Ban Nghi Lễ đầu tiên trong đó có các cụ: Võ Như Oai, Nguyễn Thế Nhã, Tư Cẩn….và kể từ đó Chùa trở thành trụ sở của Hội An Nam Phật học tỉnh Đồng Nai Thương, về sau ngôi Niệm Phật Đường này được xem là ngôi Chùa đầu tiên tại cao nguyên DiJing mà người dân thường gọi là chùa Di Linh.
Năm 1943 Chùa được trùng tu lần đầu tiên với mái ngói tường gạch và nền xi măng.
Năm 1945 cung thỉnh Thầy Thích Viên Thiện từ Bình Định vào trụ trì và hai đạo hữu Tôn Thất Luân, Hoàng Đình Kỳ làm chánh phó hội An Nam Phật học tỉnh Đồng Nai Thượng.
Từ năm 1933 đến 1957 Chùa là nơi chốn tạm dừng chân trên bước đường vân du hoằng hoá của các vị Sư như thầy Vĩnh Thông ( Phan Thiết), thầy Tâm Cảm (Phú Yên), thầy Nhất Hạnh (Bảo Lộc), thầy Mãn Giác (Đà Lạt)…
Năm 1950 đạo hữu Lê Văn Vinh, Gia Đình Phật Hoá Phổ Lâm Viên về thành lập gia đình Phật Hoá Phổ Thanh Đức tỉnh Đồng Nai Thượng.
Năm 1951 Gia Đình Phật Hoá Phổ đổi tên thành Gia Đình Phật Tử trong đó có các đạo hữu phụ trách như: Phạm Cung Trầm, Nguyễn Văn Huê, Võ Như Bá, Trương Quang Túc….
Năm 1958 do sự phát triển Phật giáo tại địa phương nên Chùa được dời đến địa điểm mới cũng cạnh quốc lộ 20 ngày nay. Lễ đặt đá xây dựng được tổ chức vào ngày 26/05/1958 dưới sự chứng minh của chư cố Hoà Thượng Mãn Giác, Thích Bích Nguyên, Thích Minh Cảnh… Từ đây Chùa được đổi tên là Linh Thắng. Trong thời gian này cố Hoà Thượng Thích Chánh Trực được Tổng hội Phật Giáo Trung phần cử làm Trụ trì kiêm giảng sư đồng thời chỉ đạo việc xây dựng Chùa cùng với cụ Hội trưởng Đổ Văn Xuyên.
Năm 1962 cố Hoà Thượng Thích Chánh Trực trở về Huế và cố thượng toạ Thích Phước Nhơn được cử thay thế trú trì. trước khi trở về Huế cố Hoà Thượng khởi xướng và vận động Phật tử đóng góp đúc tượng Đức Thế Tôn bằng đồng cao 1.30m, nặng 250kg được đúc từ Huế đưa vào thờ tại chùa linh thắng cho đến ngày nay.
Từ năm 1962 Phật tử đã cử một ban đại diện cho Chùa gồm: Đạo hữu Phạm Thành, Huỳnh Văn Mỹ, Đoàn Chí Hiếu, Nguyễn Văn Khoái, Trần Văn Đình, Bửu Phu, Trần Văn Nhẹ Lê Văn Dư…
Các vị Trụ trì kế tiếp từ năm (1964 – 1965) Thầy Thiên Tâm, từ (1965 – 1967) Thầy Hạnh Trí, từ (1967 – 1968) Thầy An Hoà.
Cuối năm 1968 Hoà Thượng Thích Toàn Đức về trụ trì cho đến nay (2011).
Năm 1951Hoà Thượng xuất gia tu học tại chùa Diệu Đế - Huế với cố Hoà Thượng Thích Diệu Hoằng.
Năm 1964 Hoà Thượng vào Nam vân du học đạo
Năm 1968 Hoà Thượng thọ đại giới tại Giới đàn Hải Đức – Nha Trang. Sau đó được Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam TN giới thiệu về Lâm Đồng và được cố Hoà Thượng Thích Thiện Giải Chánh đại diện Giáo Hội Phật Giáo tỉnh Lâm Đồng bổ nhiệm làm trụ trì chùa Linh Thắng - Di Linh.
Trước bối cảnh đất nước đang lâm vào chiến tranh khốc liệt. Để góp phần cầu nguyện cho hoà bình an lạc, năm 1971 Phật tử địa phương đã đóng góp xây dựng một tượng đài Bồ Tát Quán Thế Âm lộ thiên trước sân chùa Linh Thắng ngày nay.
Sau 1975 với cương vị phó Ban Trị Sự tỉnh Giáo Hội Phật giáo Lâm Đồng kiêm chánh Ban Đại Diện Phật giáo huyện Di Linh. Hoà Thượng đã cùng với các phật tử địa phương đã thành lập các Chùa Linh Hoà (Hoà Ninh), Linh Bảo (Hoà Nam), Linh Phúc (Hoà Bắc) Linh Trung (Hoà Trung)…
Năm 1994 Hoà Thượng cùng ban Hộ Trì đã phát động công tác Phật sự đại trùng kiến chùa Linh Thắng. Lễ đặt đá trùng kiến vào ngày 17/12/1994 (15/11/Giáp tuất) dưới sự chứng minh của cố Hoà Thượng Thích Từ Mãn trưởng ban trị sự Phật giáo tỉnh Lâm Đồng và chư tôn đức Tăng Ni. Sau hơn 10 năm trùng kiến xây dựng Lễ lạc thành đã được tổ chức vào ngày 26/03/2007 (08/02/Đinh Hợi).
Năm 2004 Hoà thượng và Ban Hộ Trì quyết định vận động phật tử gần xa đúc một quả Đại Hồng Chung nặng 500kg (thay thế quả Đại Hồng Chung do gia đình cố Phật tử Hoàng Đình Kỳ cúng dường Chùa củ vào năm 1955 nay đã hư bể) và lễ rót đồng vào lúc 9h sang ngày 27/02/2004 (08/02/Canh Thân) tại sân chùa Linh Thắng dưới sự chứng minh của cố Hoà Thượng Thích Thích Từ Mãn và chư tô đức Tăng Ni.
Ngày 29/08/Canh Dần (06/10/2010) Thượng Toạ Thích Thắng Phước tri sự chùa Linh Thắng viên tịch. cố Thượng Toạ mất đi đã để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp cho Phật tử chùa Linh Thắng, ngoài những kỷ vật nhiều tượng Phật bằng gổ quý do Thầy và nhóm thợ tôn tạo đang được thờ tại Chùa, đặc biệt bộ Tây Phương Tam Thánh sau cùng bằng gổ dâu hang ngàn năm tuổi và với tâm nguyện “ Thầy đâu tượng đó” nên sau khi cố Thượng Toạ viên tịch và nhập tháp tại khuôn viên chùa Linh Thắng, Ban Hộ Trì và Phật tử xin phép Hoà Thượng thỉnh bộ Tây Phương Tam Thánh của Thầy đã tạc vào an trí tại Thượng Điện chùa vào ngày rằm tháng 4 Tân Mão - Phật Đãn PL 2555 – 2011.
Hiện nay chùa Linh Thắng là trụ sở của ban đại diện Phật giáo huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Ngôi Bảo Tự trang nghiêm hoành tráng có được như ngày nay ngoài sự chỉ đạo của Hoà Thượng trụ trì là nhờ sự đồng tâm hiệp lực của các hang Phật tử trong đó có ban Hộ Trì gồm các vị: Nguyễn Văn Tánh, Trương Quốc Lộc, Lê Văn Chương, Phan Văn An, Trần Hữu Hạnh, Lê Thị Vân, Trần Dốc, Cao Anh, Nguyễn Đức Thịnh… Chùa Linh Thắng toạ lạc giữa núi rừng Di Linh đã hơn nữa thế kỷ và luôn là biểu tượng văn hoá tôn giáo lung linh như ánh sao giữa mây trời Tây Nguyên gió lộng.
Mây lành đến tự muôn phương
Non cao Linh Thắng ngát hương đạo tình
Bồng bềnh giữa kiếp phù sinh
Giọt chuông cam lộ lời kinh nhiệm mầu.
Linh Thắng, Mùa an cư PL 2555 – 2011
Hoà Thượng Thích Toàn Đức
GHPGTN Liên Âu Cử Hành Lễ Truy Niệm Cố HTThích Hạnh Đạo
Posted by Unknown on 08:32
Trong khuôn viên 10 ngày Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ thứ 23 tại Áo quốc 22 đến 31/07/2011, vừa hay tin Đại Lão Hòa Thượng Thích Hạnh Đạo, đã an nhiên thị tịch vào ngày thứ năm 28 tháng 7 năm 2011, thế thọ 80 tuổi, 68 Tăng lạp và 57 Hạ lạp. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu đã cử hành lễ Truy Niệm Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hạnh Đạo chiều ngày 29/07/2011, vào lúc 15 giờ.
Âu Châu
www.gdptthegioi.org
29/7/11
Phật Pháp Thứ Năm 28/7/2011
Posted by Unknown on 14:21
Thưa Anh Chị Em Áo Lam,
“Tu hành” dù là mới tu hay tu lâu, dù là huynh trưởng hay đoàn sinh là tập loại bỏ 3 thứ độc tham,sân,si; Trong 3 thứ này, thứ dễ để lộ ra ngoài nhất là sân. Khi bị ai xúc phạm đến “cái tôi” hay cái “của tôi” tức thì nổi điên lên ngay, nghĩa là cứ hướng đến đối tượng mà la mắng, chiử bới, bôi nhọ, đánh đập, có khi tìm cách giết hại nữa… không cần biết mình đã nói cái gì, làm cái gì, có tạo ác nghiệp hay không! Vì vậy phương pháp tu hành để đối trị với sân là nhìn vào bên trong để quan sát cơn giận của mình sắp nổi lên hay đang nổi lên. Nếu chúng ta biết “nhìn” vào nó thì nó sẽ dần dần “hạ” xuống rồi lặn đi, nhờ vậy chúng ta sẽ không nói hay làm những điều mà khi nguôi cơn giận ta có thể ân hận hay bị những hậu quả khủng khiếp.
Nếu ta là nạn nhân cơn sân của người khác thì ta hãy tha thứ cho họ, vì biết rằng lúc đó họ đã mất hết lý trí.
Kệ thứ 3 và thứ 4 trong Kinh Pháp Cú đức Phật nói:
“Tu hành” dù là mới tu hay tu lâu, dù là huynh trưởng hay đoàn sinh là tập loại bỏ 3 thứ độc tham,sân,si; Trong 3 thứ này, thứ dễ để lộ ra ngoài nhất là sân. Khi bị ai xúc phạm đến “cái tôi” hay cái “của tôi” tức thì nổi điên lên ngay, nghĩa là cứ hướng đến đối tượng mà la mắng, chiử bới, bôi nhọ, đánh đập, có khi tìm cách giết hại nữa… không cần biết mình đã nói cái gì, làm cái gì, có tạo ác nghiệp hay không! Vì vậy phương pháp tu hành để đối trị với sân là nhìn vào bên trong để quan sát cơn giận của mình sắp nổi lên hay đang nổi lên. Nếu chúng ta biết “nhìn” vào nó thì nó sẽ dần dần “hạ” xuống rồi lặn đi, nhờ vậy chúng ta sẽ không nói hay làm những điều mà khi nguôi cơn giận ta có thể ân hận hay bị những hậu quả khủng khiếp.
Nếu ta là nạn nhân cơn sân của người khác thì ta hãy tha thứ cho họ, vì biết rằng lúc đó họ đã mất hết lý trí.
Kệ thứ 3 và thứ 4 trong Kinh Pháp Cú đức Phật nói:
“Nó mắng tôi, đánh đập tôi
nó hại tôi, cướp đọat tôi”
ai ôm tâm niệm ấy
hận thù không thể nguôi
nó hại tôi, cướp đọat tôi”
ai ôm tâm niệm ấy
hận thù không thể nguôi
(kệ số 3)
“Nó mắng tôi, đánh đập tôi
No hại tôi, cướp đoạt tôi”
Ai vứt (liệng bỏ) đi tâm niệm ấy
Hận thù sẽ tự nguôi
(kệ số 4)
No hại tôi, cướp đoạt tôi”
Ai vứt (liệng bỏ) đi tâm niệm ấy
Hận thù sẽ tự nguôi
(kệ số 4)
Nguyên nhân đức Phật nói 2 bài kệ này là về tôn giả Tissa. Tôn giả Tissa là anh em họ với đức Phật, đã từng chung sống với đức Phật khi ngài còn là thái tử Tất Ðạt Ða. Tôn giả xuất gia khi tuổi đời đã cao, và thường tự cho mình là 1 vị trưởng lão; nhưng trong truyền thống nhà Chùa, tuổi của chư Tăng là tuổi hạ (hạ lạp), chứ không phải tuổi đời. Tôn giả Tissa mới nhập đạo nhưng lại hay xao lãng bổn phận của mình, lại ngoan cố cãi lại, nếu bị khiển trách thì tôn giả lại khóc lóc và đi mách với đức Phật. Vì thế thường gây ra nhiều mâu thuẩn với những vị tăng trẻ tuổi nhưng nhập Ðạo sớm hơn Tissa.
Một hôm đức Thế Tôn hỏi ông: “này Tissa, tại sao ông ưu phiền đến nỗi chảy nước mắt như thế?” Tissa vừa cãi vả với một số quí vị tăng sĩ, ông thưa với Phật: “Bạch Thế tôn, nếu họ đến đây để gặp Thế Tôn thì chắc con chẳng phải ưu phiền như vậy” Vừa lúc ấy, chư Tăng đến lễ bái đức Phật, Tissa liền nói: “Bạch Thế tôn, các vị Tăng này vừa khiển trách con đấy”
Ðức Phật hỏi : Hiện tại, ông đang ở chỗ nào ?
- Con đang ở đại sảnh đường, bạch Thế tôn!
- Ông có thấy Chúng Tăng đi đến đây không?
- Dạ, con thấy, bạch Thế ôn!
- Ông có đứng dậy nghênh tiếp họ không?
- Dạ không, Thế Tôn!
- Ông có đưa tay ra mời, dắt họ vào trong hay không?
- Dạ không, Thế tôn!
- Này Tissa, ông không nên có thái độ như thế đối với những người đã vào Ðạo trước ông! Ông nên hướng về họ mà ngỏ lời xin lỗi đi!
- Thế Tôn, con không xin lỗi họ đâu!
Chúng Tăng liền thưa với Phật rằng: “Thế tôn! Vị Tăng ấy rất là ngoan cố.”
Ðức Phật đáp: Này chư Tỳ kheo, ông ta ngoan cố như thế, chẳng phải là lần thứ nhất, trong tiền kiếp, ông ta cũng đã tỏ ra rất ngoan cố rồi. Chư Tăng thỉnh cầu đức Phật cho biết tôn giả Tissa đã ngoan cố như thế nào ở đời quá khứ. Do đó, đức Phật mới kể chuyện xưa như sau:
Vào thời quá khứ có 2 vị du tăng, một già một trẻ, người già tên là Devala, người trẻ tuổi là Narada cùng nhau trú ngụ qua đêm trong một lò gốm ở thành Ba La Nại. Sau khi thi lễ với nhau, tự giới thiệu mình rồi, mỗi người về chỗ của mình. Trước giờ ngủ, Narada cẩn thận xem Devala nằm ở đâu và cửa ra vào ở phía nào, rồi mới đi ngủ. Thế nhưng một lúc sau Devala lại đổi chỗ nằm gần bên cửa ra vào nên về khuya Narada cần đi ra ngoài, không ngờ Devala đã nằm ở cửa, đã vô ý đạp nhằm đầu của Devala. Devala hét lên:
- Ai đạp lên đầu ta vậy?
- Chính con là Narada, con xin sư phụ tha lỗi.
- Mi là một tên ác tăng, sống ở rừng rú, cứ nhè đầu ta mà đạp lên!
- Con không biết là sư phụ đã đổi chỗ nằm, xin sư phụ tha tội.
Nói xong, Narada đi ra ngoài. Trong lúc đó, Devala sợ bị đạp trúng đầu lần nữa, quay sang nằm chỗ khác. Lúc vào, Narada cẩn thận tránh chỗ cũ, đi chầm chậm từng bước, sờ soạng… nhưng rủi thay, lần này lại đạp trúng ngay cổ của Devala.
- Ai vậy?
- Chính con! thật con không hề biết là sư phụ lại dời qua bên này! Xin sư phụ từ bi tha tội cho con .
- Mi quả là tên ác tăng! Lúc đi ra đạp đầu ta, lúc trở vào lại đạp cổ ta. Ta phải niệm chú nguyền rủa mi mới được!
- Muôn vàn xin lỗi sư phụ từ bi, hỉ xả tha tội cho con, xin đừng niệm chú!
Nhưng Devala không tha, cứ niệm chú :
- Nguyện đầu mi sẽ bể thành 7 mảnh vào lúc mặt trời mọc.
Trong thiền định, Narada nhận thấy chú ngữ có tác dụng quay ngược trở lại, hại người đang trù rủa; Narada liền vận thần thông khiến cho mặt trời không mọc lên được. Lúc bấy giờ Vua xứ Ba La Nại biết được chuyện tại sao mặt trời không mọc được thì rất tức giận, buộc Devala phải xin lỗi Narada để mặt trời mọc lên. Nhưng Devala nhất định không chịu và tiếp tục niệm chú; lúc bấy giờ Narada mới thưa:
- Bạch sư phụ, con sắp làm phép cho mặt trời mọc nhưng lúc đó, đầu của sư phụ sẽ bị bể. Sư phụ mau lấy đất sét trét lên đấu rồi lặn xuống sông ngay, đến chỗ cạn mới trồi lên.
Devala biết nguy cơ đã thật sự đến với mình rồi, liền làm theo lời Narada; khi ông ta trồi lên khỏi mặt nước, mặt trời đã lên cao, chiếu sáng và làm cho mặt đất nắng ấm lên, lớp đất sét trên đầu Devala liền bể tan thành 7 mảnh, nhờ đó ông ta thoát chết.
Ðức Phật kết thúc câu chuyện: Devala chính la Tissa hôm nay, Vua xứ Ba La Nại thuở ấy là Ananda bây giờ, và Narada chính là ta. Nói xong, đức Phật đọc 2 bài kệ đã ghi trên đây:
Thưa Anh Chị Em Áo Lam,
Một tâm niệm ác độc thật là kinh khủng, càng kinh khủng và thê thảm hơn khi ta muốn hại người mà tác động ngược lại của cái ác lại đổ lên trên chính mình! Thế cho nên anh chị em chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức để biết mình đang làm gì, đang nói gì, đang nghĩ gì, nghĩa là phải luôn thắp sáng chánh niệm để trong tâm chỉ có những niệm an lành; không bao giờ nên làm hại người khác dù là bằng lời nói hay việc làm, thậm chí là một ý nghĩ ác cũng đừng nên để nó móng khởi lên nha!
Hãy nhớ mấy câu trong thi kệ “Ðốt nến” mà chúng ta đã dạy cho các em thực tập, để “làm rạng ngời mặt đất” nha !
Kính chào Tinh tấn !
Trân trọng,
Nhóm Áo Lam
Một hôm đức Thế Tôn hỏi ông: “này Tissa, tại sao ông ưu phiền đến nỗi chảy nước mắt như thế?” Tissa vừa cãi vả với một số quí vị tăng sĩ, ông thưa với Phật: “Bạch Thế tôn, nếu họ đến đây để gặp Thế Tôn thì chắc con chẳng phải ưu phiền như vậy” Vừa lúc ấy, chư Tăng đến lễ bái đức Phật, Tissa liền nói: “Bạch Thế tôn, các vị Tăng này vừa khiển trách con đấy”
Ðức Phật hỏi : Hiện tại, ông đang ở chỗ nào ?
- Con đang ở đại sảnh đường, bạch Thế tôn!
- Ông có thấy Chúng Tăng đi đến đây không?
- Dạ, con thấy, bạch Thế ôn!
- Ông có đứng dậy nghênh tiếp họ không?
- Dạ không, Thế Tôn!
- Ông có đưa tay ra mời, dắt họ vào trong hay không?
- Dạ không, Thế tôn!
- Này Tissa, ông không nên có thái độ như thế đối với những người đã vào Ðạo trước ông! Ông nên hướng về họ mà ngỏ lời xin lỗi đi!
- Thế Tôn, con không xin lỗi họ đâu!
Chúng Tăng liền thưa với Phật rằng: “Thế tôn! Vị Tăng ấy rất là ngoan cố.”
Ðức Phật đáp: Này chư Tỳ kheo, ông ta ngoan cố như thế, chẳng phải là lần thứ nhất, trong tiền kiếp, ông ta cũng đã tỏ ra rất ngoan cố rồi. Chư Tăng thỉnh cầu đức Phật cho biết tôn giả Tissa đã ngoan cố như thế nào ở đời quá khứ. Do đó, đức Phật mới kể chuyện xưa như sau:
Vào thời quá khứ có 2 vị du tăng, một già một trẻ, người già tên là Devala, người trẻ tuổi là Narada cùng nhau trú ngụ qua đêm trong một lò gốm ở thành Ba La Nại. Sau khi thi lễ với nhau, tự giới thiệu mình rồi, mỗi người về chỗ của mình. Trước giờ ngủ, Narada cẩn thận xem Devala nằm ở đâu và cửa ra vào ở phía nào, rồi mới đi ngủ. Thế nhưng một lúc sau Devala lại đổi chỗ nằm gần bên cửa ra vào nên về khuya Narada cần đi ra ngoài, không ngờ Devala đã nằm ở cửa, đã vô ý đạp nhằm đầu của Devala. Devala hét lên:
- Ai đạp lên đầu ta vậy?
- Chính con là Narada, con xin sư phụ tha lỗi.
- Mi là một tên ác tăng, sống ở rừng rú, cứ nhè đầu ta mà đạp lên!
- Con không biết là sư phụ đã đổi chỗ nằm, xin sư phụ tha tội.
Nói xong, Narada đi ra ngoài. Trong lúc đó, Devala sợ bị đạp trúng đầu lần nữa, quay sang nằm chỗ khác. Lúc vào, Narada cẩn thận tránh chỗ cũ, đi chầm chậm từng bước, sờ soạng… nhưng rủi thay, lần này lại đạp trúng ngay cổ của Devala.
- Ai vậy?
- Chính con! thật con không hề biết là sư phụ lại dời qua bên này! Xin sư phụ từ bi tha tội cho con .
- Mi quả là tên ác tăng! Lúc đi ra đạp đầu ta, lúc trở vào lại đạp cổ ta. Ta phải niệm chú nguyền rủa mi mới được!
- Muôn vàn xin lỗi sư phụ từ bi, hỉ xả tha tội cho con, xin đừng niệm chú!
Nhưng Devala không tha, cứ niệm chú :
- Nguyện đầu mi sẽ bể thành 7 mảnh vào lúc mặt trời mọc.
Trong thiền định, Narada nhận thấy chú ngữ có tác dụng quay ngược trở lại, hại người đang trù rủa; Narada liền vận thần thông khiến cho mặt trời không mọc lên được. Lúc bấy giờ Vua xứ Ba La Nại biết được chuyện tại sao mặt trời không mọc được thì rất tức giận, buộc Devala phải xin lỗi Narada để mặt trời mọc lên. Nhưng Devala nhất định không chịu và tiếp tục niệm chú; lúc bấy giờ Narada mới thưa:
- Bạch sư phụ, con sắp làm phép cho mặt trời mọc nhưng lúc đó, đầu của sư phụ sẽ bị bể. Sư phụ mau lấy đất sét trét lên đấu rồi lặn xuống sông ngay, đến chỗ cạn mới trồi lên.
Devala biết nguy cơ đã thật sự đến với mình rồi, liền làm theo lời Narada; khi ông ta trồi lên khỏi mặt nước, mặt trời đã lên cao, chiếu sáng và làm cho mặt đất nắng ấm lên, lớp đất sét trên đầu Devala liền bể tan thành 7 mảnh, nhờ đó ông ta thoát chết.
Ðức Phật kết thúc câu chuyện: Devala chính la Tissa hôm nay, Vua xứ Ba La Nại thuở ấy là Ananda bây giờ, và Narada chính là ta. Nói xong, đức Phật đọc 2 bài kệ đã ghi trên đây:
“Nó mắng tôi, đánh đập tôi
nó hại tôi, cướp đọat tôi”
ai ôm tâm niệm ấy
hận thù không thể nguôi
(kệ số 3)
“Nó mắng tôi, đánh đập tôi
No hại tôi, cướp đoạt tôi”
Ai vứt (liệng bỏ) đi tâm niệm ấy
Hận thù sẽ tự nguôi
( kệ số 4)
nó hại tôi, cướp đọat tôi”
ai ôm tâm niệm ấy
hận thù không thể nguôi
(kệ số 3)
“Nó mắng tôi, đánh đập tôi
No hại tôi, cướp đoạt tôi”
Ai vứt (liệng bỏ) đi tâm niệm ấy
Hận thù sẽ tự nguôi
( kệ số 4)
Thưa Anh Chị Em Áo Lam,
Một tâm niệm ác độc thật là kinh khủng, càng kinh khủng và thê thảm hơn khi ta muốn hại người mà tác động ngược lại của cái ác lại đổ lên trên chính mình! Thế cho nên anh chị em chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức để biết mình đang làm gì, đang nói gì, đang nghĩ gì, nghĩa là phải luôn thắp sáng chánh niệm để trong tâm chỉ có những niệm an lành; không bao giờ nên làm hại người khác dù là bằng lời nói hay việc làm, thậm chí là một ý nghĩ ác cũng đừng nên để nó móng khởi lên nha!
Hãy nhớ mấy câu trong thi kệ “Ðốt nến” mà chúng ta đã dạy cho các em thực tập, để “làm rạng ngời mặt đất” nha !
Thắp lên một ngọn đèn
Cúng dường vô lượng Phật
Một tâm niệm an lành
Làm rạng ngời mặt đất
Cúng dường vô lượng Phật
Một tâm niệm an lành
Làm rạng ngời mặt đất
Kính chào Tinh tấn !
Trân trọng,
Nhóm Áo Lam
27/7/11
Bản tin số 01 – Lể tang HT Cấp Dũng: Nguyên Ngộ – Nguyễn Sĩ Thiều
Posted by Unknown on 08:55
Anh Nguyên Ngộ Nguyễn Sĩ Thiều đã trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng số 10 Đường Đào Duy Từ, Thành phố Huế vào chiều tối ngày 24.07.2011.
Sau khi hay tin anh qua đời, BHD GĐPT Thừa Thiên đã kịp thời thông báo đến BHD Trung Ương, đồng thời đã cùng gia đình chuẩn bị tang lễ.
Lễ Nhập Liệm đã được tiến hành vào lúc 19h00 ngày 25.07.2011 (nhằm ngày 25.06 Tân Mão), dưới sự Chứng minh của Hòa thượng Thích Lương Phương, Chủ sám Hòa thượng Thích Chơn Trí, Chấp lệnh Hòa thượng Thích Lưu Thanh, Pháp sư Thượng tọa Thích Thái Hòa, cùng chư tăng chùa Thuyền Lâm. Buổi Lễ Nhập Liệm còn có sự trợ duyên của Hòa thượng Thích Hải Ấn, trú trì chùa Từ Đàm Huế.
Sáng sớm ngày 26.07.2011 đã tiến hành Lễ Khai Kinh và Lễ Thành Phục dưới sự Chứng minh của Hòa thượng Thích Chơn Trí, và ngài Chấp lệnh Hòa thượng Thích Lưu Thanh.
Sau đó, tiến hành Lễ Phủ Kỳ của Gia Đình Phật Tử Việt Nam được cử hành dưới sự Chứng minh của Thượng tọa Thích Thái Hòa, và ngài Chấp lệnh Hòa thượng Thích Lưu Thanh. Huynh trưởng CấpTấn Nguyên Xuân Lê Mai, Đại Diện Ban Hướng Dẫn Trung Ương tại Miền Vạn Hạnh, được ủy nhiệm của Thường Vụ BHD Trung Ương cùng Huynh trưởng Cấp Tấn Tâm Hương Nguyễn Xuân Tín, Phó BHD GĐPT Thừa Thiên, Xử lý Thường vụ Trưởng Ban, cùng hơn 10 Huynh trưởng Cấp Tấn và 20 Huynh trưởng Cấp Tín Miền Vạn Hanh đã tham dự buổi lễ. Phần nghi lễ được tiến hành long trọng và trang nghiêm. Sáu Huynh trưởng Cấp Tấn theo nghi thức mang trên tay cờ Đoàn có Hoa Sen Trắng tiến về linh đài, chầm chậm đưa lên cao, dừng lại một hồi, rồi từ từ phủ xuống quan tài của hương linh. Sau phần nghi Lễ Phủ Kỳ, thượng tọa Thích Thái Hòa đã thay mặt Chư tôn Thiền đức, Chư Hội đồng Cố vấn Giáo hạnh GĐPTVN và trên thế giới, đã ban thời pháp thoại, nói lên ý nghĩa của buổi lễ, tán thán công đức to lớn của Cố Huynh trưởng Nguyên Ngộ Nguyễn Sĩ Thiều đối với tổ chức GĐPT trong suốt 60 năm mang trên mình chiếc áo lam của tổ chức GĐPT Việt Nam. Với sự kiên trung, khí tiết của một người Huynh trưởng lãnh đạo của tổ chức, Huynh trưởng Nguyên Ngộ Nguyễn Sĩ Thiều xứng đáng được phủ lá cờ Đoàn, lá cờ tương trưng cho tinh thần và sức sống của tổ chức GĐPT Việt Nam. Chúng tôi sẽ gởi đến bài pháp thoại trong thời gian gần nhất.
Sau đây là một số hình ảnh về Lễ Nhập Quan, Lễ Thành Phục và Lễ Phủ Kỳ.
Tang lễ sẽ được tổ chức trong 9 ngày. Lễ An táng sẽ được tổ chức vào sáng ngày 03.07.2011 (nhằm ngày mùng 04.07 Tân Mão). Chúng tôi sẽ tiếp tục đưa tin về tang lễ để quý anh chị lam Viên trong và ngoài nước theo dõi, góp phần cầu nguyện cho hương linh Huynh trưởng Nguyên Ngộ Nguyễn Sĩ Thiều sớm siêu sanh tịnh độ.
Lam Viên Thừa Thiên
LỄ THÀNH PHỤC
LỄ PHỦ KỲ
VP BHD TRUNG ƯƠNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM
26/7/11
Phật Pháp Thứ Năm
Posted by Unknown on 08:58
Hình ảnh một Tu Sĩ hay một cư sĩ Phật giáo trên lộ trình giải thoát, trông thật nhỏ nhoi khiêm hạ, kham nhẫn, cô đơn, nhưng bên trong hàm chứa một nội lực sung mãn, không khoan nhượng bất thối chuyển, giương cao cờ chánh lý. Giữ vững đạo thống cương duy mới có thể khai thông đạo mạch, mới chuyển bánh xe pháp đến thời đại chúng ta. Nghĩa vụ ấy không phải dành riêng cho chúng trung tôn mà nó còn nằm trên vai cư sĩ chúng ta như câu chuyện của nàng TU MA ĐỀ người con gái xinh đẹp từ tinh thần đến thể chất con của Trưởng giả CẤP CÔ ĐỘC mà tôi xin kể ra đây hầu quý vị.
Thuở Phật tại tiền tại nước Xá Vệ có ngài CẤP CÔ ĐỘC là người vô cùng giàu có, nhiều tiền lắm của, vàng bạc trâu dê, nô tỳ tôi tớ nhiều không tính kể.
Ở thành Mãn Phú lại có Trưởng Giã Mãn Tài giàu có không kém cả hai lại chơi thân với nhau. Một hôm Mãn Tài ghé thăm nhà Cấp Cô Độc. Cấp Cô Độc bảo con gái là Tu Ma Đề ra chào khách. Mãn Tài nhìn cung cách dung mạo và phong thái của Tu Ma Đề không chê vào đâu được nên có ý muốn cưới người con gái này cho con trai mình và ngỏ ý này với ông Cấp Cô Độc. Cấp Cô Độc không thuận, Mãn Tài giận và bảo vì tài sản hay dòng họ không tương ưng? Cấp Cô Độc bảo:
Thuở Phật tại tiền tại nước Xá Vệ có ngài CẤP CÔ ĐỘC là người vô cùng giàu có, nhiều tiền lắm của, vàng bạc trâu dê, nô tỳ tôi tớ nhiều không tính kể.
Ở thành Mãn Phú lại có Trưởng Giã Mãn Tài giàu có không kém cả hai lại chơi thân với nhau. Một hôm Mãn Tài ghé thăm nhà Cấp Cô Độc. Cấp Cô Độc bảo con gái là Tu Ma Đề ra chào khách. Mãn Tài nhìn cung cách dung mạo và phong thái của Tu Ma Đề không chê vào đâu được nên có ý muốn cưới người con gái này cho con trai mình và ngỏ ý này với ông Cấp Cô Độc. Cấp Cô Độc không thuận, Mãn Tài giận và bảo vì tài sản hay dòng họ không tương ưng? Cấp Cô Độc bảo:
- Dòng họ ngài vô cùng tôn quý. Tài Sản ngài trong nước không kém ai. Nhưng việc tín ngưỡng thì không đồng nên khó có thể làm thông gia với nhau được. Trưởng giã Mãn Tài phóng khoáng bảo:
- Mỗi bên chúng ta tôn trọng sự cúng bái riêng của nhau. Riêng con gái ông được tự do thể hiện tín ngưỡng của mình.Cấp Cô Độc bảo:
- Tài sản của ông và tôi bỏ ra không thể tính kể.
- Thế ông phỏng tính bao nhiêu?
- Tôi nghĩ khoảng sáu vạn lạng vàng.
- Tôi đồng ý.
Cấp Cô Độc nói thế nghĩ ông ta có thể từ chối, nào ngờ ông ta thuận nên Cấp Cô Độc nói thật rằng:
- Để tôi còn thỉnh ý Phật. Cấp Cô Độc cấp thời đi thỉnh ý Phật. Phật dạy:
- Gả Tu Ma Đề sang thành ấy sẽ có nhiều thuận lợi độ thoát nhân dân thành ấy không thể đo lường.
Vâng lời Phật, Cấp Cô Độc trở về mở tiệc mời trưởng giả Mãn Tài đến để chiêu đãi. Khi Mãn Tài đến, ông ta liền hỏi:
- Tiệc tùng mà làm gì? Ông có thuận gả con gái cho con trai tôi không?
- Ý tôi muốn thế, ông có thể đem nó theo. Mười lăm ngày sau ông cho con trai đến đây.
Sau buổi tiệc họ chia tay. Mãn Tài về quê chuẩn bị lễ vật cùng con trai sang Xá Vệ. Cấp Cô Độc cũng chuẩn bị xe cộ, đồ hồi môn, y phục xông ướp hương hoa chờ về nhà chồng. Theo tục lệ của thành Mãn Phú, ai hỏi vợ cho con ngoài thành bị phạt đãi cơm sáu ngàn Phạm Chí. Nên khi đi rước dâu, Mãn Tài đã chuẩn bị sáu ngàn phần ăn đâu đó đầy đủ.
Khi các Phạm Chí đã ngồi vào bàn. Mãn Tài đê đầu đảnh lễ các Phạm Chí. Nàng Tu Ma Đề không thuận vì cho rằng cách đắp y còn để lộ nhiều phần trên cơ thể, nào khác đạo khỏa thân là không được. Thế Tôn dạy: Làm người phải biết Tàm Quý. Thiếu Tàm Quý tôn ty không dựng lập. Ông bà cha mẹ không dựng lập, con người nào khác trâu dê lừa ngựa. Chồng nàng muốn chiếu theo luân lý đạo giáo áp chế nàng. Tu Ma Đề thề độc:
- Thà bà con thân tộc của tôi mất mạng. Thân tôi bị chặt ra làm nhiều khúc. Tôi trọn không rơi vào nhà tà kiến. Các Phạm Chí bảo Trưởng giả:
- Đừng lý gì đến con tiện tỳ ấy, đã thỉnh mời thì hãy mau dọn rượu thịt ra đây. Đừng để nó chửi mắng như thế.
Sau khi ăn uống xong, các Phạm Chí ra về. Trưởng giã Mãn Tài lên gác lòng dạ vô cùng buồn bã. Mình cưới Tu Ma Đề về đây để nó làm nhục mình. Đúng lúc đó có một Phạm Chí tên Tu Bạt đến thăm. Tu Bạt tuy là Phạm Chí nhưng tu chứng được ngũ thông nên Mãn Tài rất quý trọng. Tu Bạt thấy nhà cửa vắng vẻ hỏi người nhà Mãn Tài vì sao có cảnh nhà cửa buồn hiu như vậy? Người nhà bảo ông lên gác gặp ông chủ thì rõ. Tu Bạt lên gác gặp Mãn Tài, tỏ rõ nguồn cơn và kinh ngạc nói:- Mỗi bên chúng ta tôn trọng sự cúng bái riêng của nhau. Riêng con gái ông được tự do thể hiện tín ngưỡng của mình.Cấp Cô Độc bảo:
- Tài sản của ông và tôi bỏ ra không thể tính kể.
- Thế ông phỏng tính bao nhiêu?
- Tôi nghĩ khoảng sáu vạn lạng vàng.
- Tôi đồng ý.
Cấp Cô Độc nói thế nghĩ ông ta có thể từ chối, nào ngờ ông ta thuận nên Cấp Cô Độc nói thật rằng:
- Để tôi còn thỉnh ý Phật. Cấp Cô Độc cấp thời đi thỉnh ý Phật. Phật dạy:
- Gả Tu Ma Đề sang thành ấy sẽ có nhiều thuận lợi độ thoát nhân dân thành ấy không thể đo lường.
Vâng lời Phật, Cấp Cô Độc trở về mở tiệc mời trưởng giả Mãn Tài đến để chiêu đãi. Khi Mãn Tài đến, ông ta liền hỏi:
- Tiệc tùng mà làm gì? Ông có thuận gả con gái cho con trai tôi không?
- Ý tôi muốn thế, ông có thể đem nó theo. Mười lăm ngày sau ông cho con trai đến đây.
Sau buổi tiệc họ chia tay. Mãn Tài về quê chuẩn bị lễ vật cùng con trai sang Xá Vệ. Cấp Cô Độc cũng chuẩn bị xe cộ, đồ hồi môn, y phục xông ướp hương hoa chờ về nhà chồng. Theo tục lệ của thành Mãn Phú, ai hỏi vợ cho con ngoài thành bị phạt đãi cơm sáu ngàn Phạm Chí. Nên khi đi rước dâu, Mãn Tài đã chuẩn bị sáu ngàn phần ăn đâu đó đầy đủ.
Khi các Phạm Chí đã ngồi vào bàn. Mãn Tài đê đầu đảnh lễ các Phạm Chí. Nàng Tu Ma Đề không thuận vì cho rằng cách đắp y còn để lộ nhiều phần trên cơ thể, nào khác đạo khỏa thân là không được. Thế Tôn dạy: Làm người phải biết Tàm Quý. Thiếu Tàm Quý tôn ty không dựng lập. Ông bà cha mẹ không dựng lập, con người nào khác trâu dê lừa ngựa. Chồng nàng muốn chiếu theo luân lý đạo giáo áp chế nàng. Tu Ma Đề thề độc:
- Thà bà con thân tộc của tôi mất mạng. Thân tôi bị chặt ra làm nhiều khúc. Tôi trọn không rơi vào nhà tà kiến. Các Phạm Chí bảo Trưởng giả:
- Đừng lý gì đến con tiện tỳ ấy, đã thỉnh mời thì hãy mau dọn rượu thịt ra đây. Đừng để nó chửi mắng như thế.
- Con dâu ông không tự sát mà còn sống đây là điều rất lạ lùng vì thầy cô ấy là một vị phạm hạnh cao thượng tôn quý. Mãn Tài buồn bực quát:
- Ngài nói gì buồn cười đến thế! Là một Phạm Chí lại đi khen một Sa Môn dòng họ Thích. Vậy Sa Môn ấy có thần thông gì? Oai đức gì? Tu Đạt kể:
“Một thuở nọ tôi đi khất thực ở phía bắc núi Tuyết Sơn. Khi đã đủ thức ăn tôi bay đến suối A Nậu Đạt để qua đường. Bất ngờ Rồng, Trời, Quỷ, Thần ở đó đồng xuất hiện đuổi tôi đi, không được làm bẩn suối. Họ sẽ giết tôi. Trong khi ấy có một Sa Di tên là Quân Đầu còn vị thành niên cầm một chiếc y bẩn dính máu đến suối. Rồng, Trời, Quỷ, Thần đồng quỳ kính đảnh lễ. Cậu bé ra suối đá. Suối đá trồi lên cho cậu bé giặt y. Giặt xong ngồi trên phiến đá mà nhập xuất đủ thứ tam muội, phơi y ở trên không. Thu y bay về trú xứ. Thần lực của Quân Đầu, tôi và các vị đại sư Phạm Chí còn không bằng nổi, huống là Sa Môn họ Thích.
Nghe vậy Mãn Tài muốn gặp Thế Tôn. Tu Bạt bảo hãy hỏi nàng dâu. Ông liền gọi Tu Ma Đề và ngỏ ý mời Phật. Tu Ma Đề mừng quá ngoan ngoãn đảnh lễ ông và thưa rằng: Nếu cha có hảo ý con xin cung thỉnh Phật và chư Tăng ngày mai thọ trai tại nhà ta. Bấy giờ Tu Ma Đề tắm rửa xông trầm ướp hương. Cung kính đưa lò hương cao ngang trán, hướng về Xá Vệ thỉnh mời Thế Tôn xin Phật xót thương, khéo léo quán biết.
Tại Tịnh Xá Kỳ Hoàn A Nan và Đại chúng đều ngửi thấy mùi hương kỳ diệu thanh khiết nên bạch Phật Phật dạy:
- Hương này là sứ giả đem lời thỉnh của Tu Ma Đề trong thành mãn Phú. Thầy phát thẻ thọ trai cho các vị đại A La Hán lậu tận ngày mai cùng ta đến thành Mãn Phú thọ trai. Trong số người nhận thẻ có Tỳ Kheo Quân Đầu còn ở bậc hữu học và tức thời đắc chứng vô học. Phật lệnh cho các đại đệ tử đi trước. Sáng hôm sau cận sự của chư tăng là Càn Trà vác một chảo to bay trên không trung đến thành kia. Trưởng giả và gia nhân đứng trên lầu cao thấy Càn Trà tưởng là Phật nên hỏi Tu Ma Đề. Tu Ma Đề đáp:
- Đây chỉ là kẻ cận sự tên Càn Trà mà thôi. Kế đến Sa Di Quân Đầu hóa vô số hoa báu đẹp bay đến trú xứ trưởng giả. Trưởng giả ngỡ là Phật. Tu Ma Đề thưa chỉ là hàng sa di của Thế Tôn. Kế đến Bàn Đặc cưỡi trâu xanh bay đến. La Vân cưỡi chim Khổng Tước đủ màu, Ca Thất Na ngồi Kiết già trên lưng chim cánh vàng. Ưu Tỳ Ca Diếp cưỡi rồng vàng bay đến. Tu Bồ Đề ngồi kiết già phu trong tháp núi Lưu ly bay đến. Ca Chiên Diên ngồi trên lưng thiên nga bay đến. Lý Việt ngồi trên mình cọp bay đến. A Na Luật thì cưỡi Sư Tử đi đến. Ca Diếp đi ngựa đuôi đỏ. Mục Kiền Liên đi bạch tượng. Trưởng giả Mãn Tài hân hoan như trong mơ được đón tiếp Thế Tôn và các cao đồ của ngài mà ông nghĩ là bậc đế vương cũng không có diễm phúc bằng. Rồi bỗng nhiên trên hư không xuất hiện một đại Sa Môn có Phạm Thiên Đế Thích Kim Cang Mật Tích theo hầu. Tại thành Xá Vệ vua Ba Tư Nặc, Trưởng giả Cấp Cô Độc đều có thể thấy rõ cảnh này. Trưởng giả Mãn Tài định hỏi con dâu, nhưng nhìn lại con dâu đã quỳ xuống và nghe con dâu thưa: Đây là Như Lai.Mãn Tài xưng tán Phật và ngỏ lời xin được quy y.Theo sự hướng dẫn của Mãn Tài, Thế Tôn và Thánh chúng vào nhà. Sáu ngàn Phạm Chí thấy Thế Tôn đầy đủ uy nghi, tướng tốt thần lực diệu hạnh như vậy nên cùng bảo nhau rằng: “Cù Đàm đã chinh phục toàn bộ cư dân xứ này. Chúng ta phải bỏ qua nước khác thôi”
Thấy dân chúng chen lấn đón chào.Thế Tôn dùng thần thông biến tường vách nhà trưởng giả thành ra lưu ly cực kỳ trong suốt. Từ xa dân chúng đều có thể nhìn thấy ngài và thánh chúng một cách tường tận. Tu Ma Đề thấy vui vì mình làm được việc hết sức ý nghĩa nhưng cũng không tránh khỏi thất vọng vì mình đã làm gì quầy quả ở quá khứ để phải có chồng về xứ này. Như Lai hiểu tâm trạng ấy và bảo nàng đừng buồn vì đây là hạnh nguyện của con. Đây là một thành tựu hạnh nguyện rồi ngài kể lại tự sự rằng:
Vào thời ngài Ca Diếp trong hiền kiếp quá khứ có vua Ái Mẫn. Con gái ngài là nàng Tu Ma Na một lòng tín kính đức Ca Diếp Phật, vâng giữ cấm giới, siêng tu tứ nhiếp pháp. Đó là Bố Thí, Sái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự và phát tâm trì tụng pháp cú cầu không sanh vào ba đường ác. Ngay thân nữ chứng được pháp thân thanh tịnh. Nghe tin thánh nữ lập nguyện. Nhân dân trong thành kéo đến tỏ lòng đồng nguyện cùng nàng. Nàng hoan hỷ đem công đức bố thí hồi hướng cho mọi người cùng nàng đều được độ. Đến đây Phật xác nhận bản sanh. Vua Ái Mẫn chính là tiền thân của cha nàng tức ngài Cấp Cô Độc. Tu Ma Na chính là tiền thân của nàng Tu Ma Đề. Nhân dân nước ấy chính là nhân dân đây. Rõ thật trong luân hồi sanh tử nhân duyên là đạo lý xuyên suốt phải ngẫm suy và nghiệm biết vậy.
24/7/11
Giới Thiệu Blog Tình Lam
Nơi đây giao lưu kết nối anh chị em áo lam khắp mọi nơi.
Nơi cảm nhận những cảm xúc vui buồn của dòng máu Lam.
Nơi mang đến những nét đẹp của tình lam, cùng đồng hành sát cánh với anh chị em áo lam Quốc Nội & Hải Ngoại.
Tình Lam mong càng ngày phong phú hơn với các bài viết sưu khảo từ các nơi.
Xin hãy cùng chung tay chia sẻ với Tình Lam cho vòng tay thân ái luôn mãi kết chặt tình lam.
"Mỗi người là một cành hoa bay về đây góp gió
Làm thành vườn hoa,vườn hoa Tình Lam chúng mình"
Tình Lam rộng khắp bốn phương
Kết tình huynh đệ thân thương một nhà