Hòa vào lễ hội Halloween truyền thống tại Hoa Kỳ, Ngành Oanh Vũ GĐPT Chánh Tâm đã tổ chức cho các em vui Halloween 2010
Nơi mang đến nét đẹp Phật Giáo & GĐPT
Hòa vào lễ hội Halloween truyền thống tại Hoa Kỳ, Ngành Oanh Vũ GĐPT Chánh Tâm đã tổ chức cho các em vui Halloween 2010
“ Dù đi xa nhưng vẫn nhớ về, nhớ về một mái nhà lam yêu dấu. Dù đi xa trong lòng vẫn nhớ hoài,nhớ hoài cùng tình lam thiết tha ngày xưa…”
Lời bài hát và độc thoại tâm tình của Quảng Phát gửi tặng anh chị em Đức Chơn,đã làm cho tôi gợi lại những cảm xúc, nhớ về mái nhà lam Đức Phương năm xưa. Cám ơn tác giả đã mang đến những lam viên xa quê hương sống nơi hải ngoại lúc nào cũng nhớ hoài tình lam nơi quê nhà. Cám ơn lam viên Đức Chơn đã thể hiện bài hát đầy ý nghĩa này trong đêm lữa trại hè 2010 Đức Chơn. Sau cùng cám ơn Htr Lê Minh Đức đã đưa clip này lên you tube.
Quảng Thọ
Htr Đạt Thịnh (đứng) nhận quà lưu niệm trong lễ chu niên lần thứ 46 GĐPT Đức Chơn |
Htr Đạt Thịnh ghé thăm Htr cấp Dũng Tâm Vinh |
Htr Đạt Thịnh ghé thăm Htr cấp Tấn Tâm Duy, Trưởng BHD Miền Liễu Quán, Hoa Kỳ |
Hoang Phong
Phật giáo là một tôn giáo khiêm tốn, chú trọng vào tâm linh và trí tuệ, nhắm vào mục đích giải thoát con người khỏi thế giới biến động và khổ đau. Phật giáo không chủ trương tranh giành uy quyền, củng cố thế lực hay bành trướng ảnh hưởng trong thế giới Vô thường này. Phật giáo cũng không xem nặng hình thức màu mè và biểu tượng, như vậy thì lá cờ Phật giáo giữ vai trò gì và vị trí của nó như thế nào trong bối cảnh của Đạo Phật ngày nay. Suốt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử Đạo Pháp, lá cờ Phật giáo đã xuất hiện từ lúc nào và ở đâu, ý nghĩa của nó là gì ?
Nguồn gốc lá cờ Phật giáo
Lá cờ Phật giáo mà ta thấy ngày nay ra đời vào năm 1880 ở Tích Lan (Sri Lanka). Người có ý kiến mang đến cho Phật giáo một lá cờ là một cựu đại tá quân đội Mỹ : Ông Henry Steel Olcoott.
Đặt chân đến Tích Lan lần đầu tiên vào năm 1879, ngay sau đó ông Olcoott đã hết sức say mê Phật giáo. Năm 1880 ông trở lại Tích lan và trình lên Ủy ban Phật giáo Colombo đề nghị tạo cho Phật giáo một lá cờ. Hình thức và màu sắc của lá cờ xuất phát từ trí sáng tạo của ông Olcoott, dựa vào sáu vòng hào quang của đức Phật và các màu sắc của cầu vồng. Lá cờ cũng tượng trưng cho Lục đạo, tức sáu đường tái sinh hay sáu thể dạng của tất cả chúng sinh trong cõi luân hồi.
Lá cờ được chính thức chấp nhận trên đất Tích lan vào dịp lễ Phật đản ngày 28 tháng 4 năm 1885. Tuy nhiên mãi đến ngày 25 tháng 5, năm 1950, trong lần hội nghị Phật giáo quốc tế ở thủ đô Colombo (Tích lan), với 26 quốc gia tham dự, thì lá cờ ngũ sắc mới được chính thức và nhất trí chấp nhận, nói lên sự thống nhất của Phật giáo thế giới.
Ngày nay, một lá cờ chung cho toàn thể Phật giáo - biểu tượng của Hòa bình, Từ bi và Trí tuệ, không phân biệt màu da và chủng tộc, không phân biệt giữa con người và tất cả những sự sống khác - đã phất phới trên lãnh thổ của hơn 50 quốc gia trên thế giới. Ngày 24 tháng 2 năm 1951, tỳ kheo Thích Tô Liên, đại diện Ủy ban Phật giáo thế giới tại Việt Nam, đi dự hội nghị Colombo đã đích thân mang lá cờ quý báu này về cho quê hương chúng ta.
Hình thức lá cờ
Lá cờ hình chữ nhật, chia đều thành sáu phần theo chiều dọc. Màu sắc gồm các màu của cầu vồng, nhưng chỉ có năm màu được chọn : xanh dương, vàng nhạt, đỏ, trắng, cam (hay vàng nghệ), sọc thứ sáu của lá cờ tượng trưng cho sự tổng hợp của các màu vừa kể. Vì thế, sọc thứ sáu lập lại tất cả năm màu, nhưng xếp theo chiều ngang.
Lời đề nghị nguyên thủy của ông H.S. Olcoott giải thích về lá cờ này không tìm thấy, tuy nhiên văn bản giải thích hay tờ phác họa lá cờ của ông Olcoot có thể vẫn còn được lưu giữ trong văn khố của Tích lan (?). Bài viết này do đó chỉ dựa vào một số tư liệu Tây phương. Rất tiếc là trong các tài liệu này thì cách giải thích về màu sắc có vẻ kém mạch lạc hoặc dùng những từ không phù hợp với Đạo Pháp cho lắm. Ý nghĩa tượng trưng các màu sắc dựa theo các tài liệu ấy có thể được tóm lược như sau :
1) Màu xanh dương tượng trưng cho « Thiền định ».
2) Màu vàng nhạt tượng trưng cho sự « suy nghĩ đúng », có thể là « Chính tư duy » (?) trong Bát chính đạo.
3) Màu đỏ tượng trưng cho « sinh lực tâm linh » (?).
4) Màu trắng tượng trưng cho « đức tin » (?).
5) Màu cam hay màu nghệ tượng trưng cho « trí thông minh » (?), cũng có thể đây là « Trí tuệ » (?).
6) Màu thứ sáu, tổng hợp của các màu vừa kể, tượng trưng cho « hành vi không kỳ thị ».
Các tài liệu trên đây cũng có thể đã được căn cứ vào các lời đề nghị của ông Olcoott (?). Dù sao thì lá cờ cũng chỉ là một biểu tượng, và ý nghĩa mà ta gán cho nó là do nơi chúng ta. Ý nghĩa của lá cờ sẽ được đề cập rộng hơn trong phần thứ hai của bài viết.
Henry Steel Olcoott là ai ?
H.S. Olcoott thực ra cũng không phải là một người hoàn toàn vô danh. Ông sinh ngày 2 tháng 8 năm 1832 tại New Jersey (Hoa kỳ) trong một gia đình Tin lành rất kỷ cương và ngoan đạo. Ngay từ ngày còn nhỏ, cha mẹ ông đã khuyến khích ông quan tâm đến những vấn đề tâm linh. Cha của ông là một thương gia, nhưng vào năm 1851 thì gia đình bị phá sản và ông phải rời bỏ nhà trường. Sau một thời gian gián đoạn học hành và sống nhờ họ hàng ở tiểu bang Ohio, ông trở lại đại học và trở thành một chuyên gia canh nông. Ông viết báo và khảo cứu khoa học. Lấy vợ năm 1860, sinh được bốn con, nhưng sau đó thì hai vợ chồng lại ly dị vào năm 1874.
Khi cuộc nội chiến ở Mỹ bùng nổ thì ông gia nhập quân đội liên bang, giữ những chức vụ hành chính khá quan trọng. Đến năm 1865, ông xuất ngũ và quay ra học luật rồi trở thành luật sư và lại tiếp tục viết báo.
Ông Henry Steel OLCOOTT (1832-1907)
Năm 1874 đánh dấu một khúc quanh lớn trong cuộc đời của ông. Năm đó đã 42 tuổi, sau khi ly dị vợ, ông gặp một người phụ nữ rất lạ lùng và đặc biệt và hai người kết bạn với nhau. Đó là bà Helene Petrovna Blavatsky, một phụ nữ gốc người Nga, thuộc một gia đình thật quý phái – có lẽ còn quý phái hơn cả gia đình của Nga hoàng lúc bấy giờ. Bà rất quan tâm đến những vấn đề thần bí, đã từng chu du nhiều nơi trên thế giới, kể cả Ấn độ và Tây tạng và viết khá nhiều sách. Bà Blavatsky và ông Olcoott cùng với một người bạn nữa là William Quan Judge đứng ra thành lập hội Thông thiên học, một truyền thống bao gồm tất cả các tôn giáo. Ông Olcoott được bầu làm chủ tịch của hội này.
Bà Helene Petrovna BLAVATSKY (1831-1891)
Năm 1878, trụ sở chính của hội Thông thiên học được chuyển từ Mỹ về Adyar, một vùng ngoại ô của tỉnh Madras ở Ấn độ. Trụ sở này vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay. Tuy nhiên điều đáng nêu lên hơn hết là khi ông Olcoott và bà Blavatsky đến Tích lan ngày 16 tháng 5, năm 1880 thì họ được dân chúng thủ đô Colombo tiếp đón rất trọng thể vì họ đã được nghe danh ông từ trước. Ngày 25 tháng 5, ông Olcoott và bà Blavatsky đã đến quỳ gối trước một tượng Phật khổng lồ tại đền Wijananda và xướng lên bằng tiếng Pa-li những câu thệ nguyện về Tam quy (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng) và Ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói xằng bậy, không say sưa), để xin được quy y.
Dư luận thời bấy giờ thường gán cho ông cái biệt danh là người « Phật tử da trắng ». Thật vậy ông là một trong những người Mỹ đầu tiên đã quy y. Sau đó, mặc dù ông đến Tích lan nhiều lần và mỗi lần chỉ lưu lại trong một thời gian ngắn, ông đã thành lập được nhiều trường đại học Phật giáo, chẳng hạn như các Đại học Ananda và Nalanda, các trường Cao đẳng Phật học Dharmaraja và Visakha Vidyalaya…, tổng cộng gần 400 trường Phật học. Ông giúp người Tích lan phục hồi truyền thống Phật giáo, chống lại ảnh hưởng ngoại lai do thực dân Anh du nhập vào Tích lan. Ngoài ra ông lại còn cổ động cả phong trào chống lại thực dân Anh trên phần đất này. Tháng 7 năm 1880, ông rời Colombo như một vị anh hùng dân tộc của Tích lan. Sau đó ông quay trở lại vào những năm 1881, 1882 và 1884. Năm 1884, khi rời Tích lan ông đi thẳng đến Luân đôn và đòi chính quyền Anh phải thực thi sáu điều khoản ông đưa ra trong mục đích bênh vực người Phật giáo Tích lan bị ức hiếp và bị hạn chế sinh hoạt Phật sự ngay trên chính quê hương của họ. Chính quyền Anh quốc chỉ chấp nhận hai điều khoản mà thôi. Kể lại những tình tiết trên đây, người viết chỉ nhắm duy nhất vào mục đích trình bày nhiệt tâm của ông Olcoott đối với Đạo Phật nói chung và đối với người dân Phật giáo Tích lan nói riêng mà thôi. Chẳng những ông có công bênh vực và giúp hồi phục nền Phật giáo Tích lan mà lại còn mở đường cho Phật giáo trên đất Mỹ nữa.
Ông H. S. Olcoott và Ngài Sumangala, một vị cao tăng Tích lan trong Ủy ban Phật giáo Colombo
Ông mất ngày 17 tháng 2 năm 1907 tại Adyar. Người ta đã đắp lên người ông một lá cờ Mỹ và một lá cờ Phật giáo rồi mang đi hỏa táng. Từ đó đến nay, 17 tháng 2 đã trở thành một ngày lễ của Tích lan. Học sinh, sinh viên, Phật tử cùng với các nhà sư cầm cờ Phật giáo đi diễn hành, đặt vòng hoa và lễ vật dưới chân đài tưởng niệm ghi nhớ công đức của ông. Ngày nay, một đường phố lớn ở Colombo thủ đô Tích lan vẫn còn mang tên ông.
Ý nghĩa của lá cờ Phật giáo
Cách giải thích các màu sắc của lá cờ như đã trình bày trong phần trên đây dựa vào một vài tài liệu bằng Pháp ngữ. Trong một số tài liệu bằng Anh ngữ thì cách giải thích có khác hơn đôi chút, tuy vẫn thiếu mạch lạc và không thống nhất. Sau đây là cách giải thích thường thấy :
1) Màu xanh dương tượng trưng cho Từ bi.
2) Màu vàng tượng trưng cho Trung đạo.
3) Màu đỏ tượng trưng cho Đạo đức.
4) Màu trắng tượng trưng cho Đạo Pháp vượt ra khỏi không gian và thời gian.
5) Màu cam tượng trưng cho Trí tuệ.
6) Màu tổng hợp (màu thứ sáu) tượng trưng cho Sự thật tuyệt đối.
Vì lý do có nhiều khác biệt trong ý nghĩa tượng trưng của màu sắc như đã trình bày, chúng ta cũng không nên quá chú trọng và câu nệ vào cách giải thích từng màu. Chúng ta hãy xem lá cờ Phật giáo tượng trưng cho ánh hào quang của Phật là đủ. Kinh sách kể rằng khi đức Phật đạt được Giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề thì thân của Ngài trở nên sáng ngời, tia sáng toả rộng trên đầu tạo thành một hào quang sáu màu rạng rỡ.
Lá cờ được chia thành sáu phần hay sáu sọc theo chiều dọc, tượng trưng cho sáu thể dạng của chúng sinh, tức Lục thú hay Lục đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, A-tu-la và thiên). Sọc thứ sáu, tổng hợp của năm màu, tượng trưng cho sự hòa đồng, không phân biệt giữa tất cả chúng sinh. Chẳng những lá cờ Phật giáo không mang tính cách kỳ thị về quốc tịch, màu da và chủng tộc giữa con người, mà còn chủ trương tôn trọng và hòa đồng tất cả mọi hình thức và dạng thể của sự sống.
Ta cũng có thể xem lá cờ Phật giáo là ánh sáng của cầu vồng. Màu sắc trên lá cờ là màu sắc của cầu vồng. Đối với Phật giáo Tây tạng, cầu vồng tượng trưng cho Báo thân (Sambhogakaya), tức hiện thân của Phật, hình tướng của Phật.
Sau hết, tất cả mọi người đều tìm thấy một chút màu cờ của quốc gia mình trên lá cờ ngũ sắc của Phật giáo. Lá cờ Phật giáo không dương lên để phân định hay đánh dấu một lãnh thổ nào cả, nó chỉ có thể kéo lên ở một nơi thật rộng lớn, một giang sơn không biên giới, vượt khỏi mọi sự tranh giành. Giang sơn đó là giang sơn của Từ bi và rộng lượng, của yêu thương và hy vọng. Giang sơn đó rộng lớn và mênh mông như không gian.
Lá cờ Phật giáo cũng không tượng trưng cho một chủ thuyết hay một niềm kiêu hãnh nào cả. Lá cờ Phật giáo là biểu tượng của Hoà bình, không hề nhuốm một giọt máu nào, dù là giọt máu của một sinh vật nhỏ nhoi và tầm thường nhất. Lá cờ Phật giáo được kéo lên để nhắc nhở chúng ta hãy hy sinh tất cả cho sự an vui và hạnh phúc của nhân loại và tất cả chúng sinh.
Lá cờ ấy cũng không kêu gọi và không khích động ta phải xông lên để đương đầu với một kẻ thù nào cả. Đối với người Phật tử, thì kẻ thù nguy hiểm và khó chế ngự nhất là kẻ thù đang ngự trị trong tâm thức của mình, đang ẩn nấp trong thân xác của chính mình. Kẻ thù ngự trị trong tâm thức là Vô minh, hận thù, tham lam và bám níu ; kẻ thù ẩn nấp trong thân xác là những bản năng thú tính của chính mình.
Kết luận
Một lá cờ nói chung, thực ra chỉ là một biểu tượng và ta có thể gán cho nó bất cứ một ý nghĩa nào ta muốn. Đối với lá cờ Phật giáo, rất có thể ta cũng nhìn thấy nó mang nhiều màu sắc vui mắt và xem nó như một vật trang trí ở cổng chùa, trước cửa nhà hay trên bàn thờ Phật.
Tuy nhiên biết đâu rằng, đến một lúc nào đó khi ta ngước nhìn lá cờ Phật giáo thì tâm thức ta bỗng nhiên sẽ bừng lên ánh hào quang của Phật, rạng rỡ và muôn màu.
Khi nhìn thấy lá cờ đột nhiên ta sẽ đồng loạt quán nhận được tất cả sáu thể dạng của chúng sinh : từ ngạ quỷ, quỷ đói đến súc sinh, từ con người đến thánh nhân và thiên nhân, không mảy may phân biệt, ghét bỏ, hận thù hay ganh tỵ. Tất cả chúng sinh và chính ta đều đang quờ quạng trong bóng đêm, như đang bước đi trong một giấc mộng du. Bỗng nhiên tâm thức ta bị khích động mãnh liệt bởi lòng Từ bi vô biên và ta ước mong được gieo rắc tình thương trên khắp sáu nẻo của luân hồi.
Hoặc cũng có thể khi nhìn lên lá cờ Phật giáo, tâm thức ta bỗng thấy cả một cầu vồng chan hòa ánh sáng nối liền tâm thức của mình với tâm thức của Phật.
Chỉ khi nào đạt được như thế thì có lẽ khi ấy ta mới mong có đủ sức mạnh để hiểu được hết ý nghĩa thật sự của lá cờ Phật giáo.
Bures-Sur-Yvette (Pháp quốc) 20.05.07
Em cười hoa Bồ tátEm ngự giữa muôn trùng biển cát hay em nằm yên trên thung lủng hải hà của pháp giới, trên đỉnh đồi Vô Ưu, thanh tịnh buổi giao thời tịnh nhiễm vì có lúc thấy có vọng ngôn, làm xa cách giữa hai bờ thực tại, chân vọng, mà chiếc cầu sinh tử đã rút đi từ thưở nào, còn chăng cũng chỉ là một hạt mơ như hoa đốm giữa hư không, như sấm chớp lưng trời. Ngàn năm qua hay mãi sau nầy, lá thu có rơi, cuồng phong có giận dữ, luân chuyển có vô cùng, nhưng tự gốc rễ của cây bồ đề tự tánh, vô ngôn vẫn còn mang mãi hình ảnh chân tình của Liên Hoa Thủ. Có phải sinh mệnh của bước chân đi đời người trong các nẻo, cũng cần phải mang theo hành trang vô tự, được cấu tạo bởi Từ bi và Trí tuệ. Sinh tử đã là hư ảo, thì đi đến về có phải cũng là những nối tiếp của nguyện lực hoặc bị vong thân trên bước đường réo gọi.... phù sinh.
nở giữa cõi nhân gian
ta, một người lãng tử rong chơi, lời tâm niệm
sớm mai, hoa cười nói
chim hót trên cành cây
mang trong lòng hương gió
có tiếng chuông vọng về
bên ngọn đồi hư vọng
ta thầm hỏi sắc không
vào trong trái tim nhỏ
ngàn lối, ngộ ta bà
một mai, mở tâm hương
ta gọi thầm pháp giới
trong vô lượng hải hà
giữa trùng khơi, em ngự..
đường biển rộng, rõ soi in chiếc bóng
nước từ nguồn, dấu cũ vẫn nguyên sơ
đã ngàn năm, phiêu dạt mọi chốn đời
ta đi nhặt lá thu vàng để đếm
cõi tử sinh, nối tiếp bước hành trình
từng lặng lẽ, giữa đời nghe thu sớm
quét lá vàng, ôm giấc mộng tung bay
còn lại chút, lòng son cho sen nở
ta dâng người khi gom đầy lá biếc
thu có về, đổ xuông trận thu phong
lời im lặng, ta hong từng lá mỏng
vẳng nghe tâm, vừa sáng giữa chợ đời
chân trời đó, là lắng lòng vô niệm
bầu bạn cùng nhật nguyệt lúc ưu tư có ánh sáng rạng ngời từ suối ngọt
gió miên man, gọi đến cõi vô cùng
Ta từng chép lời Kinh đầy mái tóc
mở rộng đời cho ánh mắt vì sao*
đem khổ đau gửi vào chốn Kinh chiều*
đem ánh sáng, gọi tự tình Kinh sớm*
Ồ em, giữa cõi đời muôn hữu hạn
lấy Tâm kinh, tô vẽ nét môi em
ta chấm điểm, cho ngàn trùng biến động*
cho em cười, nụ bồ tát thơm ngon…
Để cảm niệm những người thực hiện hạnh lành
Nhân Ngày Bồ tát Quán Thế Âm, 19.09 Âm lịch
qua cái nhìn của tâm non….
Buổi sáng nay, mở tâm xem lại
thấy vô cùng có mặt, lúc “điểm tâm”…
Thưa Anh Chị Em Áo Lam,
Chữ mà ACE chúng ta hay nói đến nhất là chữ “TU”; nào là chương trình tu học, tham dự khóa tu, tu học Phật Pháp v.v.. Nhưng nếu có 1 em đoàn sinh hỏi cắc cớ rằng “thưa Anh/Chị tu là gì? Anh/Chị đã tu được bao nhiêu năm?” v.v.. chắc chắn là chúng ta hơi bối rối, lúng túng, bởi vì “ai tu nấy chứng” và bản thân mình, nhiều khi mình đâu có biết mình tu ngang đâu rồi!!
Xin thưa, hầu hết ACE Huynh trưởng GĐPT chúng ta là vậy, ít ai dám vỗ ngực nói: tôi đã đắc quả Tu Đà Hoàn, hay A Na Hàm hay A La Hán cả!!!
Điều đó rất dễ hiểu vì tu là chuyện của mình nhưng mình có thực tu hay không còn do cái biểu hiện của mình khi hữu sự (nghĩa là khi “đụng chuyện”) mới biết được. Thật vậy, trong bài giảng “Thước đo người tu” của Thầy Thích Trí Siêu (ở Pháp), Thầy dạy:
Nhiều người tu lâu năm, thường đi chùa, ăn chay, niệm Phật, ngồi thiền, làm công quả, theo học giáo lý với nhiều thầy nổi tiếng v.v.. nhưng bấy nhiêu đó có đủ để chứng minh là người này tu khá, tu đúng và đưa đến giải thoát hay không?
Và Thầy đưa ra những tiêu chuẩn mà Thầy gọi là “tối thiểu và căn bản” để nhận biết một người tu đúng hay không:
Người ấy còn ham thích tài sản, danh lợi và sắc dục hay không?
Còn dễ nổi sân hay không? (khi gặp chuyện trái ý thì giận dữ bực tức ngay)
Còn kiêu căng ngã mạn hay không? (thích khoe khoang, thích điều khiển người khác, thích được ngợi khen, tâng bốc...)
Còn chấp rằng “Thầy tôi” hay “pháp môn của tôi” là hay hơn hết (tâm tư hẹp hòi, ưa chia rẽ, bè phái v.v..)
Nếu còn 4 điều trên đây thì người này dù đã tu 30, 40 năm, ngồi thiền nhập định 5, 6 tháng, thuộc làu đủ loại Chú, Kinh… hoặc có hàng ngàn đệ tử, viết hàng trăm cuốn sách thì nhất định người này vẫn chưa Tu đúng theo đạo Phật!!!
Ngoài ra, một người tu cần phải có (và thực hành) những việc sau đây:
Biết làm phước, bố thí
Biết nói lời ái ngữ
Biết và tinh cần thực hành 4 đức tính: Từ, Bi, Hỷ, Xả
Lễ độ và khiêm hạ đối với tất cả mọi người.
Thật vậy, làm được 4 điều này mới gọi là biết tu và có tu.
Thứ nhất, có những người đọc rất nhiều Kinh, sách, hiểu biết giáo lý, giảng Đạo rất hay nhưng không biết làm phước, bố thí, ngược lại còn bỏn sẻn, keo kiệt, bo bo giữ chặt tài sản của mình, nếu phải cho ai một vài đồng bạc thì cảm thấy đau đớn tận xương tủy.
Thứ hai, có người học Đạo lâu năm mà không giữ gìn khẩu nghiệp, ăn nói bậy bạ, lung tung, chê bai chỉ trích, phỉ báng và vu khống người khác nữa…
Thứ ba, thực hành 4 Tâm Vô Lượng này (Từ, Bi, Hỷ, Xả) con người trở nên toàn thiện, sống đời sống của một bậc Thánh trong kiếp hiện tại.
Thứ tư, càng tu thì “cái ngã” càng nhỏ dần, càng biết tôn trọng người khác, như bồ tát “Thường Bất Khinh” trong kinh Pháp Hoa, luôn khiêm cung, lễ độ đối với mọi người, đặc biệt là các bậc trưởng thượng.
Thưa Anh Chị Em,
Với “Thước Đo” này coi như chúng ta đã có một kim chỉ nam để hiểu thế nào là tu, đi theo hướng nào là đúng và như thế nào là tiến bộ, tiến tu và như thế nào là chậm tiến, chưa tu, v.v..
Chúng ta luôn tinh tấn soi rọi lại mình xem đã tu chưa và tu có đúng hay không; tự chúng ta quán sát mình và những người chung quanh (ACE Huynh trưởng và đàn em của chúng ta, bạn bè, bà con v.v.. ) sẽ nhận biết là chúng ta có thực tu hay không.
Chúng ta hãy thường nhắc nhở nhau để cùng thăng tiến đồng bộ trong tu học và tu tập, để mãi mãi “Tiến trong Ánh Đạo Vàng” các Bạn nha!
Trân trọng,
Nhóm Áo Lam
Nơi đây giao lưu kết nối anh chị em áo lam khắp mọi nơi.
Nơi cảm nhận những cảm xúc vui buồn của dòng máu Lam.
Nơi mang đến những nét đẹp của tình lam, cùng đồng hành sát cánh với anh chị em áo lam Quốc Nội & Hải Ngoại.
Tình Lam mong càng ngày phong phú hơn với các bài viết sưu khảo từ các nơi.
Xin hãy cùng chung tay chia sẻ với Tình Lam cho vòng tay thân ái luôn mãi kết chặt tình lam.
"Mỗi người là một cành hoa bay về đây góp gió
Làm thành vườn hoa,vườn hoa Tình Lam chúng mình"
Tình Lam rộng khắp bốn phương
Kết tình huynh đệ thân thương một nhà
Nguyện theo ngọn đuốc Tuệ, đi tiếp con đường Lam.
Mãi theo Hoa Sen Trắng, thơm ngát Tình áo Lam.
Sống không giận không oán trách
Sống mỉm cười với thử thách chông gai
Sống vươn lên theo kịp ánh ban mai
Sống an hoà với những người chung sống
Sống là động nhưng lòng luôn bất động
Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
Sống hiên ngang danh lợi xem thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến