29/4/11
Nhân mùa Phật đản bàn về tích đản sanh
Posted by Unknown on 12:22
Có nhiều người, trong cũng như ngoài đạo Phật, thắc mắc không hiểu vì sao đạo Phật là đạo phá ngã chấp mà đức Phật lại nói chỉ có Ngài là tôn quý nhất, không những trong thiên hạ mà còn khắp các cõi trời và cõi người nữa.
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịch là hoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời. Lịch sử kể rằng bà Ma Da, công chúa của một nước láng giềng, là phu nhân của vua Tịnh Phạn nước Ca Tỳ La Vệ, khi có thai, theo phong tục của xứ mình phải trở về quê mẹ để sinh nở. Trên đường về, trong lúc dừng chân nghỉ ngơi tại vườn Lâm Tỳ Ni, hoàng hậu Ma Da đã hạ sinh Thái tử. Khi Thái Tử sinh ra thì được chư Thiên đến nâng đón và tắm rửa. Sau đó, lúc để xuống đất, Ngài đã bước bảy bước và dưới mỗi bước chân là một bông sen nở. Thái Tử đưa tay lên trời mà nói: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn".
Ðó là bảy bước chân và lời nói đầu tiên của Ngài. Ai là người Phật tử cũng biết lịch sử Phật Ðản Sanh cùng những lời giải thích khác nhau về ý nghĩa bảy bước đi và lời tuyên thuyết đầu tiên này. Có nhiều người, trong cũng như ngoài đạo Phật, thắc mắc không hiểu vì sao đạo Phật là đạo phá ngã chấp mà đức Phật lại nói chỉ có Ngài là tôn quý nhất, không những trong thiên hạ mà còn khắp các cõi trời và cõi người nữa. Có nhiều vị lại cho rằng tất cả hàng trời người đều tôn xưng Ngài là "Ðấng Thế Tôn" thì như thế câu nói trên cũng không phải sai và cũng không trái với giáo lý giải thoát... vân vân và vân vân. Thật ra trong kinh Phật, có giải thích sự kiện này. Hôm nay nhân mùa Phật Ðản, người viết xin được trình bầy thêm, y cứ vào kinh điển và ý nghĩa lời kinh, để làm sáng tỏ.
Về câu "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" dịch ra tiếng Việt là: "Trên trời dưới trời, chỉ có ta là tôn quý". Câu này chỉ là một phần câu, được ghi trong Kinh Sơ-Ðại Bản-Duyên trong bộ Kinh Trường A hàm Quyển Một, một quyển kinh ngắn lược thuật nhân duyên giáng sanh, thành đạo và giáo hóa của bảy đức Phật trong thế giới Ta Bà. Nguyên văn câu đó được dịch như sau: "Trên trời dưới trời, duy ta là tôn quý, ta muốn cứu độ chúng sanh khỏi vòng sinh già bệnh chết" [1][2]. Ðó là lời Ðức Phật Thích Ca thuật lại khi Ðức Phật Tỳ Bà Thi, vị Phật thứ nhất bổ sanh trong thế giới Ta Bà, ra đời đã nói lên lời như vậy, cũng giống như Ngài (Phật Thích Ca) đã nói lên lời như vậy, và "ấy cũng là thông lệ của chư Phật" [3]
Xét về mặt ngôn ngữ, câu trên cho thấy rằng chỉ có Ngài là bậc tôn quý nhất trong loài người và trời, Ngài đã thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi và thị hiện cõi Ta Bà để cứu độ chúng sinh thoát khỏi vòng sinh tử như Ngài. Tuy nhiên, nếu xét về mặt ý nghĩa của câu nói, chúng ta nên hiểu chữ "Ta" trong câu "duy có ta là tôn quý" không phải là cái Ta của Thái Tử Tất Ðạt Ða, một cái Ngã sinh diệt như cái Ngã của trăm ngàn chúng sinh khác. Chữ Ta ở đây chính là Phật Tánh, là Chân Tâm, chẳng hề sanh chẳng hề diệt, hoàn toàn thanh tịnh, là cái xa lìa tất cả những cái gì gọi là đối đãi. Cái Ta đó hay cái Ngã đó chính là Chân Ngã, chính là Pháp Thân thường trụ, không bao giờ hoại, bao trùm khắp không gian và thời gian. Trong kinh Ðại Bát Niết Bàn, phẩm Như Lai Tánh, đức Phật dạy: "Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sinh chẳng nhận thấy được." Cũng trong kinh này (Phẩm Tứ Tướng), Phật nói rõ "thân của Như Lai tức là Pháp Thân, chẳng phải thân thịt máu mạch gân xương tủy hợp thành. Vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ, vì tùy thuận cách sanh của chúng sinh mà thị hiện làm đứa trẻ...".
Thật ra, Phật Tánh hay Chân Tâm hay Chân Ngã hay Pháp Thân là một cái gì khó hiểu, khó nhận biết và khó trình bày vì thực chất của nó nằm ngoài ngôn ngữ, ngoài thế giới tương đối hiện tượng. Chúng ta chỉ có thể biết qua nhận thức, qua kinh điển rằng: Phật Tánh là một cái gì đó chỉ có người chứng ngộ mới biết được, là một cái gì đó "không sanh không diệt, không đi không đến, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng phải do nhân làm ra, cũng chẳng phải không nhân, chẳng phải tự tác, chẳng phải tác giả, chẳng phải tướng, chẳng phải không tướng, chẳng phải có danh, chẳng phải không danh, chẳng phải danh sắc, chẳng phải dài ngắn, chẳng phải nhiếp trì trong ấm, giới, nhập...".
Khi nói về Phật Tánh, Ðức Phật thường dùng phương cách lìa tứ cú để dạy chúng ta, có nghĩa là lìa khỏi bốn kiến chấp hay bốn phạm trù thế gian tương đối: có, không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không. Ngoài ra Ngài cũng dùng tỷ dụ hay phương thức ngụ ngôn, hàm chứa những ý nghĩa thâm thúy, ám thị lý tuyệt đối mà chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời trực tiếp mà giảng giải vì lời chỉ là khí cụ diễn đạt cái tư tưởng tương đối, cái có hình, có tướng trong thế giới nhị nguyên. Như khi nói về Chân Tâm Phật Tánh, ngài kể trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn về một cô gái nghèo, trong nhà có kho vàng ròng mà không biết, đến khi có người khách khéo biết phương tiện chỉ cho chỗ cất giữ kho báu, cô trở nên giầu có. Người khách khéo biết phương tiện dụ cho Phật, cô gái nghèo dụ cho vô lượng chúng sinh hiện bị các phiền não che đậy và kho vàng ròng chỉ cho Phật Tánh Chân Tâm. Câu chuyện gã cùng tử hay viên ngọc châu trong đáy túi áo trong Kinh Pháp Hoa cũng tương tự.
Như vậy, khi nói câu "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" Ðức Phật, lúc ấy là Thái Tử Tất Ðạt Ða, không nói về cá nhân ngài, về cái thân tứ đại ngũ uẩn sinh diệt, mà nói về cái Tâm Chân Thật, cái Ngã Chân Thật của chúng sinh. Chính cái Tâm đó mới là tôn quý, mới là tối thượng và cái Tâm Chân Thật đó chính là Tâm Phật mà ai ai cũng có, bất luận giầu nghèo sang hèn, bất luận mầu da ngôn ngữ, bất luận tôn giáo chính kiến.
***
Bây giờ nói về bảy bước chân trên bảy đóa sen nở của Phật. Tại sao không phải là ba bước, sáu bước hay tám bước. Có người giải thích theo tư tưởng kinh Hoa Nghiêm là toàn thể vũ trụ trên, dưới, trong, ngoài, phải, trái và chính giữa. Từ vật nhỏ như vi trần đến vật lớn như núi tu di tất cả không ngoài con số 7. Con số 7 là tổng số của 6+1, là biểu thị cho một tổng thể không gian và tổng thể thời gian. Đây là biểu tượng cho sáu hướng không gian và một trung tâm; 6 hướng ở đây là 4 phương (Đông Tây Nam Bắc) và hai hướng của trục vũ trụ thẳng đứng (thiên thượng: tay phải chỉ trời và thiên hạ: tay trái chỉ đất). Ngoài ra, bảy bước theo tư tưởng kinh Lăng Nghiêm thì thế giới nhân sinh và vũ trụ được hình thành từ con số 7, tức bảy đại: địa đại (đất), thủy đại (nước), phong đại (gió), hỏa đại (lửa), hư không đại, kiến đại (nhìn thấy), và thức đại (nhận biết). Lại có người giải thích Ngài bước bảy bước là vì "Ngài là vị Phật thứ bảy", tiếp nối sáu vị Phật đi trước, mà bắt đầu là Phật Tỳ Bà Thi.
Còn bảy đóa sen nở tượng trưng cho 7 quả vị Thánh (Tư đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, Ala hán, Duyên giác, Bồ Tát và Phật) là kết quả tu hành của bảy hàng để tử Phật gồm Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, Thức Xoa ma na, Ưu bà tắc, và Ưu bà di….vân vân và vân vân.
Thật ra, con số bảy trong Phật giáo có rất nhiều tiêu biểu. Ngoài thất đại còn có thất bồ đề phần tức bảy cấp bậc tiến đến giác ngộ, biểu tượng cho trình tự tu chứng. Thêm vào đó, còn có thất giác chi, tức bảy pháp của người Phật tử cần phải tu tập để tiến tới giải thoát (Niệm Giác chi, Trạch Pháp Giác chi, Tinh Tấn Giác chi, Hỷ Giác chi, Khinh An Giác chi, Ðịnh Giác Chi, Xả Giác chi). Trong Kinh Thập Thượng thuộc bộ Kinh Trường Bộ, Ðức Phật có nói tới mười thứ "bảy pháp" [4] tổng cộng là bảy mươi pháp đã đưa Như Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác (bảy tài sản, bảy giác chi, bảy thức trí, bảy tùy miên, bảy phi diệu pháp, bảy diệu pháp, bảy thượng nhân pháp, bảy tưởng, bảy thù diệu sự, bảy lậu tận lực).
Con số bảy mang nhiều biểu tượng như trên và bảy bước chân đầu tiên của Phật cũng có thể mang hàm ý như thế, tuy nhiên, ai là người Phật tử thấm nhuần đạo Pháp cũng đều hiểu rằng, không phải Phật chỉ bước có bảy bước với bảy bông sen nở dưới chân mà là bước vô lượng bước trong khắp cõi Ta Bà, trong khắp không gian vô tận và thời gian vô cùng. Không một chỗ nào, không một sát na nào mà không có bước chân Phật, mà không có hoa sen nở.
***
Ngoài bảy bước chân trên bảy đóa sen nở với câu nói bất hủ “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” như đã được giải thích trên, còn sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa ra đời bên hông phải của hoàng hậu Ma Da không giống như mọi trẻ khác làm sao giải thích được cho các thế hệ sinh ra và lớn lên tại các nước tân tiến ngày nay. Thật ra, sự kiện này là theo truyền thuyết Phật giáo Bắc truyền được truyền tải qua các kinh tạng chữ Hán, như các kinh: Tu Hành Bản Khởi, Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Phật Bản Hạnh Tập, Trường A Hàm. Họ giải thích những vị Bồ Tát thị hiện là những bậc thanh tịnh không thích sự xuất thai theo sản đạo phổ thông của mọi người thường. Ngoài ra một vị sư tu theo Thiền Tông giải thích sự kiện sanh bên hông phải là biểu trưng của Phật tánh, không phải là kết tinh do cha mẹ sinh ra, là tâm vô trụ siêu việt thiện ác đúng sai, vượt ngoài pháp đối đãi nhị nguyên. Đó là hai lối giải thích của những người tu theo Phật giáo Bắc truyền. Tuy nhiên, sau khi tra cứu một số kinh tạng Pali, chúng tôi không thấy kinh văn nào nói đến việc Thái tử sanh ra từ hông bên phải hoàng hậu Ma Gia mà chỉ nói từ bụng mẹ sinh ra. “Này các Tỳ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, chư thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người. Pháp nhĩ là như vậy". (Trường Bộ Kinh Tập I Kinh Đại Bổn 14 - trang 451).
Nói tóm lại, sự đản sanh của Đức Thế Tôn, theo như kinh tạng Nguyên Thủy, là một con người bình thường, Hoàng hậu Ma Da cũng hoài thai như muôn ngàn thiếu phụ khác. Đúng ngày sinh nở, Thái tử Tất Đạt Đa cũng chào đời qua lòng mẹ như mọi trẻ khác. Điều này nhằm bác bỏ quan điểm truyền thống sai lầm đã ăn sâu trong tín ngưỡng người Ấn Độ bấy giờ là Ngài không phải do Phạm Thiên (đấng tạo hóa) sinh ra.
TÂM DIỆU
(Phật Đản 2011)
28/4/11
Phật Pháp Thứ Năm 28/4/2011
Posted by Unknown on 20:00
CHIẾN CÔNG OANH LIỆT NHẤT
Phiền não và tham dục là những nguyên nhân chính nhận chìm chúng sanh trong sanh tử luân hồi, lên xuống trong ba cỏi sáu loài. Vĩnh kiếp khó tìm lại được bản lai diện mục của chính mình. Bởi những chiến công oanh liệt trên chiến trường, trên thương trường, trên đấu trường dù to lớn đến đâu cũng khép lại khi xả báo thân nầy, nào có thể đem chúng sang thế giới bên kia như là một thứ hành trang có thể trao đổi mua bán thế chấp can trừ những điều bất như ý mà ta phải kinh qua?
Hoàn toàn không! Thế nhưng, nếu ta chiến thắng “Tham dục và Phiền não” Ta có thể chứng được vô sanh pháp nhận, đoạn trừ sanh tử ra khỏi luân hồi cho nên có thể coi đây là chiến công oanh liệt nhất.
Đừng nghĩ tưởng, những kẻ giàu có, quyền cao chức trọng, vợ đẹp con xinh, xả bỏ những thứ nầy thật là khó. Còn kẻ hành khất, người thợ cuốc đất, kẻ tiều phu, gia tài vỏn vẹn có cái tô, cái cuốc, cái rựa buông bỏ nó có gì là khó và từ đó đạt đến thắng trí không có chi xa. Việc đời không đơn giản như thế. Trong kinh tiểu bộ có câu chuyện rằng:
“Ngày xưa tại nước Ba La Nại có anh nông dân, tài sản không gì hơn ngoài cây cuốc cùn đi làm công thuê độ nhật. Một hôm anh thấy cuộc sống thật vô vị và con đường xuất gia là thù thắng nhất. Trước khi đi anh đem cây cuốc cùn cất vào nơi kín đào rồi mới lên đường. Nhưng chỉ được ít lâu anh nhớ cây cuốc và hoàn tục. Đã sáu lần như vậy, đến lần thứ bảy, anh cầm cây cuốc đứng bên bờ sông lớn, nước chảy cuồn cuộn, Anh cầm cây cuốc quay tít trên đầu, nhắm mắt và buông tay. Cây cuốc bay ra giữa sông rớt xuống. Anh mở mắt thét lên thật to: “TA ĐÃ CHIẾN THẮNG”
Lúc ấy vua Ba La Nại cũng vừa chiến thắng giặc ngoại xâm ngoài biên thùy. Ngài đang cùng ba quân tướng sĩ đang tắm ở thượng nguồn cách đó không bao xa, Vua cho gọi người nông dân đến và hỏi:
- Ta vừa chiến thắng ở mặt trận trở về còn bạn đã chiến thắng ai mà vui mừng reo to như thế?
Người nông dân đáp:
- Một trăm ngàn lần chiến thắng quân thù ngoài mặt trận không bằng ngài tự chiến thắng mình trên lãnh vực phiền não và tham dục ở nội tâm. Miệng nói mắt nhìn giòng sông lặng lờ chảy khởi thiền quán về nước và anh ta đắc thánh quả. Anh bay lên hư không và thuyết pháp cho vua nghe. Vua nghe pháp đoạn trừ vọng tưởng, trần cấu theo người nông dân đi vào núi tuyết sơn tấn tu. Quân lính đang tắm dưới sông, quần chúng trên bờ sông nghe được thời pháp nầy đều tỏ rõ đạo ý, đồng một lòng xuất gia.
Trên cỏi trời, ghế Đế Thích nóng và rung lên, Ngài vội vàng nhìn xuống xem chuyện gì ở hạ giới. Khi thấy biết sự việc ngài sai thiên tử trông coi công tác xây dựng giáng trần vào núi Tuyết Sơn thiết lập một khu dân sinh có nhiều cây lành trái ngọt suối nước, đuổi các loài thú dữ trùng độc phi nhân bất hảo để đại chúng an tâm tu trì. Người nông dân xuất gia trước, truyền giới cho vua và đại chúng và mãn đời tất cả đồng sanh thiên.
Đến đây hẳn ACE đồng rõ “CHIẾN THẮNG MÌNH TRÊN LÃNH VỰC THAM DỤC VÀ PHIỀN NÃO LÀ CHIẾN CÔNG OANH LIỆT NHẤT” quả là không sai vậy./.
Trân trọng
Nhóm Áo Lam
Đừng nghĩ tưởng, những kẻ giàu có, quyền cao chức trọng, vợ đẹp con xinh, xả bỏ những thứ nầy thật là khó. Còn kẻ hành khất, người thợ cuốc đất, kẻ tiều phu, gia tài vỏn vẹn có cái tô, cái cuốc, cái rựa buông bỏ nó có gì là khó và từ đó đạt đến thắng trí không có chi xa. Việc đời không đơn giản như thế. Trong kinh tiểu bộ có câu chuyện rằng:
“Ngày xưa tại nước Ba La Nại có anh nông dân, tài sản không gì hơn ngoài cây cuốc cùn đi làm công thuê độ nhật. Một hôm anh thấy cuộc sống thật vô vị và con đường xuất gia là thù thắng nhất. Trước khi đi anh đem cây cuốc cùn cất vào nơi kín đào rồi mới lên đường. Nhưng chỉ được ít lâu anh nhớ cây cuốc và hoàn tục. Đã sáu lần như vậy, đến lần thứ bảy, anh cầm cây cuốc đứng bên bờ sông lớn, nước chảy cuồn cuộn, Anh cầm cây cuốc quay tít trên đầu, nhắm mắt và buông tay. Cây cuốc bay ra giữa sông rớt xuống. Anh mở mắt thét lên thật to: “TA ĐÃ CHIẾN THẮNG”
Lúc ấy vua Ba La Nại cũng vừa chiến thắng giặc ngoại xâm ngoài biên thùy. Ngài đang cùng ba quân tướng sĩ đang tắm ở thượng nguồn cách đó không bao xa, Vua cho gọi người nông dân đến và hỏi:
- Ta vừa chiến thắng ở mặt trận trở về còn bạn đã chiến thắng ai mà vui mừng reo to như thế?
Người nông dân đáp:
- Một trăm ngàn lần chiến thắng quân thù ngoài mặt trận không bằng ngài tự chiến thắng mình trên lãnh vực phiền não và tham dục ở nội tâm. Miệng nói mắt nhìn giòng sông lặng lờ chảy khởi thiền quán về nước và anh ta đắc thánh quả. Anh bay lên hư không và thuyết pháp cho vua nghe. Vua nghe pháp đoạn trừ vọng tưởng, trần cấu theo người nông dân đi vào núi tuyết sơn tấn tu. Quân lính đang tắm dưới sông, quần chúng trên bờ sông nghe được thời pháp nầy đều tỏ rõ đạo ý, đồng một lòng xuất gia.
Trên cỏi trời, ghế Đế Thích nóng và rung lên, Ngài vội vàng nhìn xuống xem chuyện gì ở hạ giới. Khi thấy biết sự việc ngài sai thiên tử trông coi công tác xây dựng giáng trần vào núi Tuyết Sơn thiết lập một khu dân sinh có nhiều cây lành trái ngọt suối nước, đuổi các loài thú dữ trùng độc phi nhân bất hảo để đại chúng an tâm tu trì. Người nông dân xuất gia trước, truyền giới cho vua và đại chúng và mãn đời tất cả đồng sanh thiên.
Đến đây hẳn ACE đồng rõ “CHIẾN THẮNG MÌNH TRÊN LÃNH VỰC THAM DỤC VÀ PHIỀN NÃO LÀ CHIẾN CÔNG OANH LIỆT NHẤT” quả là không sai vậy./.
Trân trọng
Nhóm Áo Lam
[phim ảnh] Hoặt Cảnh Đản Sanh
Posted by Unknown on 15:56
Hoặt Cảnh Đản Sanh của GĐPT Đức Chơn
cúng dường đêm 14/4 âm lịch PL 2553 tại Quảng Hương Già Lam
Hoặt Cảnh Đản Sanh của GĐPT Trúc Lâm,Chicago PL 2554
Hoặt Cảnh Đản Sanh của GĐPT Đức Tuệ PL 2554 tại Quảng Hương Già Lam
Hoặt Cảnh Đản Sanh của GĐPT Đức Tuệ PL 2554 tại Quảng Hương Già Lam
Câu chuyện lửa tàn (93)
Posted by Unknown on 10:45
Học làm Mục tử chăn trâu.
Kính thưa quý anh chị,
Cùng các em thân mến.
Hôm nay chúng ta sẽ không nói đến nhân quả, nghiệp báo nữa – Có khi quý anh chị nghĩ rằng đề cập nhiều đến vấn đề này làm cho chúng ta sợ hãi như là bị răn đe. Đức Phật cũng có nói trong nhiều bộ kinh, bởi vì chúng sinh nơi cõi Ta Bà này quá kiên cường, ngang ngạnh nên phải thường thuyết về quả báo của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh
Kính thưa quý anh chị,
Cùng các em thân mến.
Hôm nay chúng ta sẽ không nói đến nhân quả, nghiệp báo nữa – Có khi quý anh chị nghĩ rằng đề cập nhiều đến vấn đề này làm cho chúng ta sợ hãi như là bị răn đe. Đức Phật cũng có nói trong nhiều bộ kinh, bởi vì chúng sinh nơi cõi Ta Bà này quá kiên cường, ngang ngạnh nên phải thường thuyết về quả báo của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh
Ở bậc Trì, huynh trưởng sẽ nghiên cứu sơ lược về Mười bức trang chăn trâu (Thập mục ngưu đồ), đây là lối trình bày độc đáo của Phật Giáo Trung Hoa – thay vì viết ra thành văn bản người xưa sẽ vẽ hay chạm khắc lên tường vách những hình vẽ thô sơ như những bức tranh trong vòng tròn có in trong sách. Người biết đọc chữ thì có thể viết và trình bày những lời văn vẻ, ý tứ cao xa, thậm chí làm ra những bài thơ đề vào họa có vần có điệu. Nhưng những Mục tử chăn trâu vốn không biết chữ và cũng không thích văn nghĩa rườm rà nên chỉ cần nhìn vào bức hình vô ngôn mà liễu nghĩa vậy.
Bức tranh thứ nhất vẽ mục đồng ngớ ngẩn nhìn quanh có tên là Tầm Ngưu – Tìm trâu. Tại sao phải tìm trâu, tìm trâu để làm gì? Đã nói Mục đồng là kẻ chăn trâu mà mất trâu thì lấy gì mà chăn nên phải đi tìm trâu. Chuyện gì xảy ra khi chứng kiến cảnh ruộng mạ, hoa màu bị trâu đạp phá! Bởi vì sau những cơn nộ giận là tan hoang, sau những khi si mê là đau khổ, sau những phút ganh tỵ thành dục động, ở những giây tham lam là muốn đoạt của người….Hồi hộp, kinh sợ, oán hờn, bức tức, đau khổ cứ xâm chiếm lấy tâm hồn sau những sự kiện dù nhỏ, dù lớn làm ta luôn phiền não suy tư, u mê lầm lạc vào Khổ thọ. Nay đã là Phật Tử, nhận diện được sự phiền não, khổ đau luôn thường trực trong đời sống không biết khởi từ đâu mà cứ ra tay tàn phá vùng tâm thức của mình và người cho nên ta phải quyết tâm đi tìm trâu, tìm ra kẻ đã phá hoại hung tàn ra tay rồi lẩn trốn mất.
Bức tranh thứ nhì có tên là Kiến Tích, vẽ Mục đồng thấy dấu chân trâu trên đất vui mừng lần theo những vết ấy mà tìm trâu. Thì đây khi trong tâm ta hiện khởi những dấu hiệu bất thường như vui mừng, đắc thắng, thỏa mãn thì không nói làm gì bời vì đó là những trạng thái của Lạc thọ nên không lấy gì làm đau khổ, đến chừng mất mát, thất bại, bị đâm thọc, bị nhục mạ, chê bai, thất tình, bất ý thì trong tâm thức ta sẽ đưa ra những dấu hiệu phản kháng âm ỉ hay bộc lộ ra ngoài… Đó chính là những vết chân châu đang hằn sâu vào khổ thọ, nếu chăm chú vào nội tại một chút ta sẽ nhận ra ngay. Vấn đề bây giờ là chúng ta có quyết định lần theo dấu vết ấy để bắt con trâu Tâm quay về con đường thuần hóa dưới vòng dây và cây roi huấn luyện của Mục đồng hay không.
Ờ đây chúng ta sẽ không kêu gọi tình thương, không cần chúng ta phải thương ai. Chúng ta chỉ cần mở rộng lòng bao dung để dung chứa nhiều hơn nữa và tập làm sao đừng có ghét những người mình không thương là được rồi. Vì thương yêu theo kiểu phàm tục là thích sở hữu, muốn chiếm hữu mà mặt trái của chúng là ganh tỵ, ghét ghen; chúng ta không chờ đợi những người anh hùng cứu giúp hay những nhà hảo tâm phóng tiền tài rộng rãi ban bố, chỉ cần sống yên vui, không làm tổn hại tới nhau là được rồi, vì cuộc đời lắm kẻ tiểu nhân, gian tặc mới có người anh hùng; nhiều người bần cùng khốn khổ mới cò những vị hảo tâm nổi tiếng. Nói chung, trong hiện tại chỉ cần đối đãi với nhau tử tế, điều này tuy không khó nhưng đụng chuyện rồi thì mới thấy cá tính của mỗi người và sự tập nhiễm lâu đời nó điều khiển con trâu lòng xúc phạm lẫn nhau. Chỉ cần khen hay chê vài tiếng là chung quanh mình sẽ có kẻ vui người buồn, kẻ kiêu căng người bực tức. Cuộc đời rối ren từ đây, và các mối nội loạn cũng từ đây – Loạn tâm là mối loạn muôn đời.
Từ đó Mục đồng mới tìm thấy con trâu sau mỗi lần thỏa thích đắc chí hay hung hăng nộ giận qua bức tranh thứ 3 là Kiến Ngưu – thấy trâu: Ngày Chủ Nhật muốn đi đến chùa nhưng mệt quá ở nhà ngủ đến chiều; Ngày rằm mồng 1 đang ăn chay mà thấy thịt cá hấp dẫn nên không kềm lòng ngã mặn… Con trâu này cần một vòng dây gọi là giới luật để răn mình, là nguyên tắc sống của những Phật tử, sách tấn, thử thách, tu tập là một cây roi làm giáo cụ điều khiển từ hoang dã đến thuần phục, từ buông lung thành chịu phép về sau.
Thương bao nhiêu sẽ ghét bấy nhiêu; đắc chí bao nhiêu thì sẽ dễ suy sụp bấy nhiêu…Muốn thoát khỏi khổ thọ ta phải kiểm thúc được lạc thọ vì chúng đều những trạng thái thiên kiến cực đoan. Chỉ cần chúng ta điều độ quân bình là được rồi. Không làm được người quân tử thì cũng chớ nên thành những kẻ tiểu nhân. Tu là cốt để thực hành chứ hiểu biết nhiều mà không tự điều khiển được mình thì cũng như không.
Nguyên Hoàng
Bức tranh thứ nhất vẽ mục đồng ngớ ngẩn nhìn quanh có tên là Tầm Ngưu – Tìm trâu. Tại sao phải tìm trâu, tìm trâu để làm gì? Đã nói Mục đồng là kẻ chăn trâu mà mất trâu thì lấy gì mà chăn nên phải đi tìm trâu. Chuyện gì xảy ra khi chứng kiến cảnh ruộng mạ, hoa màu bị trâu đạp phá! Bởi vì sau những cơn nộ giận là tan hoang, sau những khi si mê là đau khổ, sau những phút ganh tỵ thành dục động, ở những giây tham lam là muốn đoạt của người….Hồi hộp, kinh sợ, oán hờn, bức tức, đau khổ cứ xâm chiếm lấy tâm hồn sau những sự kiện dù nhỏ, dù lớn làm ta luôn phiền não suy tư, u mê lầm lạc vào Khổ thọ. Nay đã là Phật Tử, nhận diện được sự phiền não, khổ đau luôn thường trực trong đời sống không biết khởi từ đâu mà cứ ra tay tàn phá vùng tâm thức của mình và người cho nên ta phải quyết tâm đi tìm trâu, tìm ra kẻ đã phá hoại hung tàn ra tay rồi lẩn trốn mất.
Bức tranh thứ nhì có tên là Kiến Tích, vẽ Mục đồng thấy dấu chân trâu trên đất vui mừng lần theo những vết ấy mà tìm trâu. Thì đây khi trong tâm ta hiện khởi những dấu hiệu bất thường như vui mừng, đắc thắng, thỏa mãn thì không nói làm gì bời vì đó là những trạng thái của Lạc thọ nên không lấy gì làm đau khổ, đến chừng mất mát, thất bại, bị đâm thọc, bị nhục mạ, chê bai, thất tình, bất ý thì trong tâm thức ta sẽ đưa ra những dấu hiệu phản kháng âm ỉ hay bộc lộ ra ngoài… Đó chính là những vết chân châu đang hằn sâu vào khổ thọ, nếu chăm chú vào nội tại một chút ta sẽ nhận ra ngay. Vấn đề bây giờ là chúng ta có quyết định lần theo dấu vết ấy để bắt con trâu Tâm quay về con đường thuần hóa dưới vòng dây và cây roi huấn luyện của Mục đồng hay không.
Ờ đây chúng ta sẽ không kêu gọi tình thương, không cần chúng ta phải thương ai. Chúng ta chỉ cần mở rộng lòng bao dung để dung chứa nhiều hơn nữa và tập làm sao đừng có ghét những người mình không thương là được rồi. Vì thương yêu theo kiểu phàm tục là thích sở hữu, muốn chiếm hữu mà mặt trái của chúng là ganh tỵ, ghét ghen; chúng ta không chờ đợi những người anh hùng cứu giúp hay những nhà hảo tâm phóng tiền tài rộng rãi ban bố, chỉ cần sống yên vui, không làm tổn hại tới nhau là được rồi, vì cuộc đời lắm kẻ tiểu nhân, gian tặc mới có người anh hùng; nhiều người bần cùng khốn khổ mới cò những vị hảo tâm nổi tiếng. Nói chung, trong hiện tại chỉ cần đối đãi với nhau tử tế, điều này tuy không khó nhưng đụng chuyện rồi thì mới thấy cá tính của mỗi người và sự tập nhiễm lâu đời nó điều khiển con trâu lòng xúc phạm lẫn nhau. Chỉ cần khen hay chê vài tiếng là chung quanh mình sẽ có kẻ vui người buồn, kẻ kiêu căng người bực tức. Cuộc đời rối ren từ đây, và các mối nội loạn cũng từ đây – Loạn tâm là mối loạn muôn đời.
Từ đó Mục đồng mới tìm thấy con trâu sau mỗi lần thỏa thích đắc chí hay hung hăng nộ giận qua bức tranh thứ 3 là Kiến Ngưu – thấy trâu: Ngày Chủ Nhật muốn đi đến chùa nhưng mệt quá ở nhà ngủ đến chiều; Ngày rằm mồng 1 đang ăn chay mà thấy thịt cá hấp dẫn nên không kềm lòng ngã mặn… Con trâu này cần một vòng dây gọi là giới luật để răn mình, là nguyên tắc sống của những Phật tử, sách tấn, thử thách, tu tập là một cây roi làm giáo cụ điều khiển từ hoang dã đến thuần phục, từ buông lung thành chịu phép về sau.
Thương bao nhiêu sẽ ghét bấy nhiêu; đắc chí bao nhiêu thì sẽ dễ suy sụp bấy nhiêu…Muốn thoát khỏi khổ thọ ta phải kiểm thúc được lạc thọ vì chúng đều những trạng thái thiên kiến cực đoan. Chỉ cần chúng ta điều độ quân bình là được rồi. Không làm được người quân tử thì cũng chớ nên thành những kẻ tiểu nhân. Tu là cốt để thực hành chứ hiểu biết nhiều mà không tự điều khiển được mình thì cũng như không.
Nguyên Hoàng
Nguồn:www.gdptthegioi.org
27/4/11
Ngày Dã Ngoại 2011 - GĐPT Chánh Tâm
Posted by Unknown on 16:33
Ngày 24/4/2011 GĐPT Chánh Tâm sinh hoạt tiạ thành phố Hayward đã tổ chức 1 ngày dã ngoại tại Vasona Park,Los Gatos,California cho toàn thể đơn vị,Phụ Huynh Đoàn Sinh và cựu đoàn viên. Ngày dã ngoại bắt đầu từ 9:00 giờ sáng đến 4:00 giờ chiều với chủ đề "vui chơi trong tinh thần Lục Hòa cộng trụ".
Bắc California
www.gdptthegioi.org
Hoa Ưu Đàm Nở
Posted by Unknown on 14:44
Nói một cách chân xác, cụ thể, vắn gọn: Đức Phật thị hiện Đản sinh giữa đời chính là giúp cho chúng sinh, cho con người được thành Phật như Đức Phật là Phật đã thành.
Chính vì thế, kỷ niệm ngày sinh của Ngài, ngày Khánh đản đối với con người, thực sự đã trở thành ngày hội lớn, ngày trọng đại trong mọi chiều kích văn hóa nhân bản của thế giới loài người.
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
Với tất cả tấm lòng chí thành, ngưỡng mộ quy kính đối với sự thị hiện của Đức Phật, người làm thơ hầu hết có một độ chín của nguồn cảm xúc, rung động, và họ thể hiện nó lên những dòng thơ. Và thơ của họ trở thành đạo. Từ thơ mà có Đạo và từ Đạo lại có Thơ. Một quá trình chuyển hóa tâm linh trên đường giác ngộ.
Đối với người làm thơ, đa số đã có chung một cách nhìn: sự ra đời của Đức Phật chính là sự chào đời của một đóa hoa thanh khiết, sự bung nở của một đóa hoa Ưu đàm, Umdambara.
Vô ưu hoa, Đàm hoa, Umdambara, một loài hoa đã từ linh thoại đi vào thi thoại,,loài hoa cực quý, ba nghìn năm mới nở một lần. Và khi loài hoa quý ấy xoè cánh dưới mặt trời, tỏa hương thơm cho đời, chính là lúc hoa báo tin mừng cho trái tim nhân loại, hoa đem tin vui cho hoa lá, cỏ cây đất trời. Hoa truyền trao sức sống dạt dào cho khắp cả thiên hà vũ trụ. Hoa ưu đàm nở báo tin có một vì thánh ra đời, có bậc cứu tinh cho loài người xuất hiện.
Ở nơi vườn Lumbini, xứ Kapilavatthu, cách đây hơn 2.600 năm, những đóa hoa Ưu đàm đã lung linh hé nở giữa ban mai, và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ra đời dưới bóng mát của loài hoa linh thoại ấy.
Chính vì thế, loài người, trong đó có thi nhân, đồng nhất hóa Đức Phật với Đàm hoa. Và hình tượng Đức Phật với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp uy nghi đã được thi nhân thi hóa thành đóa hoa Ưu đàm, đóa hoa trân quý nhất giữa vườn hoa nhân loại.
Hơn hai nghìn năm trước, hoa ưu đàm đã nở. Hoa không vì không gian, quốc độ mà hạn cuộc sắc hương. Hoa không vì riêng ai mà hé nở. Đóa hoa ấy đã nở vì lòng thương yêu cho thế giới muôn loài, và cho cả thiên thu muôn thuở. Với tất cả tấm lòng tôn kính tuyệt đối, niềm tin tưởng vô biên, nhà thơ Trúc Diệp đã viết những vần thơ ca ngợi đóa hoa nhiệm mầu trân quý ấy:
Cũng hôm này, trên hai nghìn năm trước
Khắp vườn trời nhẹ thoảng một mùi hương
Hoa không riêng mà chung cả mười phương
Đã nở với lòng thương đầy nhân loại
Hoa không rụng, thời gian không thể hái
Hoa miên trường rắc mãi nét xinh tươi…
Trúc Diệp (Bóng Hoa Đàm)
Cùng chung dòng cảm xúc, cùng chung một cách nhìn và chung cách thể hiện, nhà thơ Tống Anh Nghị, từng ngưỡng mộ ngày Phật đản sanh, như là ngày nở đóa hoa cho muôn thuở, hoa cho tất cả muôn nơi:
Từ gốc quý đã một lần hoa nở
Hoa vươn cao khỏi cỏ dại sinh sôi
Hoa rực sáng như đất trời rực rỡ
Sắc hương lành tự bản chất tinh khôi
Umdambara hay Ưu đàm tên gọi
Một lần sinh muôn thuở vẫn khai hoa…
Tống Anh Nghị
(Umdambara – từ một đóa hoa)
Nhà thơ Trụ Vũ thì dường như ông đã trải rộng tư tưởng cảm xúc mình ở độ thể nhập vào đạo, thật mênh mông mà cũng thật sâu lắng. Hình tượng Đức Phật trong thơ ông, không chỉ được thi hóa thành một đóa hoa, mà còn tất cả những gì chung quanh hoa nữa:
Nửa khuya, Đức Phật vào đời
Trong đôi cánh hạc tuyệt vời lên trăng
Cành hoa muộn nở ngoài sân
Thoảng hương xa, Phật đến gần trong hương
Phật là hoa, Phật là hương
Là trăng, là hạc, là hồn phương Đông.
Trụ Vũ (Nữa Khuya)
Nhà thơ thiền sư Nhất Hạnh mang đến cho người đọc nguồn cảm xúc ngất ngây, hàm súc, và rất kinh điển. Ông đã viết những câu thơ đầy hình tượng, đầy tính chất triết học, bày tỏ lòng ngưỡng mộ, quy kính trước sự Đản sanh của Đức Từ Phụ. Giờ phút đản sinh của Đức Phật là giờ phút bừng nở một đóa hoa, nụ hoa bất diệt:
Giờ phút linh thiêng
Gió lặng chim ngừng
Trái đất rung động bảy lần
Khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt
Bàn tay chuyển pháp trong hương đêm tinh khiết
Ấn cát tường nở trắng một bông hoa
Thế giới ba ngàn đồng thanh ca ngợi
Văn Phật Thích Ca
Giờ phút linh thiêng
Đóa hoa bất diệt nở ngay giữa vườn hoa sinh diệt
Nhất Hạnh (Đêm Cầu Nguyện)
Các nhà thơ đã chân thành vận dụng tất cả những đường nét thi ảnh, những hình tượng cao quý nhất, thuần khiết nhất, những gì mà ngôn ngữ thi ca biểu cảm được để ngợi ca, để tán thán sự ra đời của Đức Thế Tôn. Biểu tượng Đức Phật như một đóa hoa, Đản sinh Phật như Đản sinh một đóa hoa, là một cách nói. Và cũng không còn cách nói nào hay hơn được nữa, khi thi nhân đang được chiêm ngưỡng một nhân cách toàn thiện, vĩ đại là Đức Phật.
Khác với tất cả những vị giáo chủ các tôn giáo có mặt trên thế giới, Đức Phật đã không bao giờ tự phong thánh cho nhân cách hoàn hảo trác tuyệt của mình. Đức Phật luôn chối bỏ ngôi vị thần quyền mà người khác toan gán lên cuộc đời Ngài.
Đức Phật đản sinh giữa cuộc đời, trước hết là vì con người, cho con người Chính vì thế, Đức Phật đã hiện tướng con người mà biểu hiện một nhân cách hoàn hảo, trác tuyệt.
Hiện thân thân giáo của Đức Phật chính là hiện thân hình bóng trung thực nhất của con người, và gợi nhắc cho nhân loại biết rằng đã là con người thì ai cũng có đủ khả năng mô phỏng để trở thành một nhân cách trác tuyệt như Ngài.
Vì thế, nhiều nhà thơ đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ, thành kính của mình, trong ngày Khánh đản, trước sự ra đời của Đức Phật như sự ra đời của một con người, một con người nhân cách hoàn hảo nhất giữa thế giới loài người :
Nghìn xưa Phật đã nghĩa là người
Nghìn sau Phật nghĩa là người mãi
Người thắng đỉnh cao, sống rạng ngời.
Tống Anh Nghị
Rằm tháng tư, ta ăn mừng sinh nhật
Của tâm linh – huyền diệu mãn khai hoa
Ôi HOA NGƯỜI đã nở giữa hồn ta
Nghe con suốt thời gian xuyên sợi chỉ
Dệt nên chiếc áo vàng nhất thể
Thiên Ân ơi! Văn Phật là Người.
Trụ Vũ
Đóa hoa người ấy chính là vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ từ chín tầng trời Đâu Suất, vì một đại sự nhân duyên mà hóa thân ứng hiện vào đời. Mượn thân con người để dìu dắt muôn loài chúng sanh, cứu vớt chúng sanh vượt thoát khổ đau sanh tử. Ngài đã mượn thân người là để truyền trao cho con người rồi sẽ cũng đạt quả vị đại giác như Ngài. Ngài mượn tất cả mọi hình tướng con người chín là để làm tấm gương cho nhân loại mô phỏng và tự mình thắp đuốc đi đến quả vị tối thượng như Ngài:
Mượn thân Thái tử…vào đời,
Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian
Mượn cung điện ngọc huy hoàng
Hóa con vua lại chẳng màng lợi danh
Mượn thân tráng liệt hùng anh
Nói cho đời biết đấu tranh lẽ thường
Mượn phàm thân nói tam cương
Nói nhân nghĩa lễ… con đường thế gian
Mượn thân nam tử dọc ngang
Mở chân diệu nghĩa huy hoàng tình yêu
Mượn thân cha cuộn hải triều
Ngọt lành cơm sữa trăm chiều cho con
Mượn khuya vó ngựa câu dòn
Nửa khuya băng lướt núi non dặm ngàn
Mượn con dao nhỏ đoạn tràng
Cắt xanh mái tóc lên đàng dặm xa
Mượn thăm thẳm ánh sao xa
Mở đường giải thoát trầm kha luân hồi
Mượn đi đứng, mượn nằm ngồi
Rừng sâu khổ hạnh pha phôi tháng ngày
Mượn dòng sông gột bụi này
Chánh thân đoan tọa gốc cây Bồ-đề
Mượn hư không thốt nguyện thề
Quyết thành đạo quả trở về bản lai
Mượn huy hoàng ánh sao mai
Đạo vàng thân chứng hoa khai Phật cười
Mượn thân người hóa độ người
Vườn Nai chuyển Pháp đất trời quang dương
Mượn cỏ hoa, mượn dặm trường
Từ Bi Trí Tuệ muôn phương trao truyền
Mượn rừng sâu, tối thắng duyên
Niết-bàn tịch tịnh bản Nguyên Phật là…
Và một nhà thơ khác, đã đưa hình tượng Phật – Người ấy vào những câu thơ lục bát, tưởng chừng như đã được ca dao hóa, đại chúng hóa và trở thành những câu hát ru nôi của những bà mẹ hiền:
Em ơi, Đức Phật là người
Bàn tay nhân ái, nụ cười bao dung
Bây giờ thanh đạm áo nâu
Thương em, Phật cũng dãi dầu gió sương
Phật giờ là chuối ba hương
Là xôi nếp ngọt, là đường mía lau
Canh tàn bấc lụn dầu hao
Phật ru em tiếng ca dao tuyệt vời.
Biểu hiện Đức Phật là Hoa, là Người; gọi Đức Phật với đầy đủ 10 danh hiệu: Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biên Tri… chỉ là những cách nói nhất diễn đạt cảm xúc của mình trước một nhân cách hoàn hảo, vĩ đại là Đức Phật, trong ngày Khánh Đản của Ngài.
Ngày Khánh đản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trên đất nước Việt Nam, với bề dày lịch sử du nhập đạo Phật, đã trở thành ngày hội lớn truyền thống. Nguồn cảm xúc của thi nhân đối với ngày trọng đại ấy cũng đã trở thành sức sống hàm tàng nội lực từ tâm linh cốt tủy. Vì thế, cứ đến mùa Phật Đản, chúng ta được đón đọc những vần thơ mới; những bài thơ tràn trào hạnh phúc, những bài thơ đưa hồn người trở về với một hiện tại sáng trong, vươn tới một tương lai an lạc:
Ngày Phật Đản tiếng ôi thân thiết
Môi mẹ cười, hoa Bụt long lanh
Trụ Vũ
Bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình trước ngày Khánh đản của Đức Thế Tôn bằng những câu thơ, cũng chính là quá trình biểu cảm hình thành một nhân cách mô phỏng nhân cách hoàn hảo của Phật. Cho nên, thơ của họ là thơ đạo. Trong Thơ có Đạo. Vào Đạo có Thơ.
Thơ ấy, bao giờ cũng tràn trào một hương vị giải thoát, hương của hoa Umdambara, hương của loài hoa bất tử:
Khi đóa hoa bất tử
Một uy nghi nở giữa trần hoàn
Thì cho dù ngũ trược lệ chan
Địa cầu chính là niết bàn, Tịnh độ. Hạnh Phương
26/4/11
Trại Họp Bạn Quán Âm VIII - BHD GĐPT Pháp Quốc
Posted by Unknown on 21:23
Trại Họp Bạn Quán Âm VIII do Ban Hướng Dẫn GĐPT VN tại Pháp Quốc tổ chức tại Chùa Phổ Hiền - Strasbourg (Pháp Quốc) vào các ngày 23,24,25/4/2011.
Nguồn: www.gdptquangduc.fr
Giới Thiệu Blog Tình Lam
Nơi đây giao lưu kết nối anh chị em áo lam khắp mọi nơi.
Nơi cảm nhận những cảm xúc vui buồn của dòng máu Lam.
Nơi mang đến những nét đẹp của tình lam, cùng đồng hành sát cánh với anh chị em áo lam Quốc Nội & Hải Ngoại.
Tình Lam mong càng ngày phong phú hơn với các bài viết sưu khảo từ các nơi.
Xin hãy cùng chung tay chia sẻ với Tình Lam cho vòng tay thân ái luôn mãi kết chặt tình lam.
"Mỗi người là một cành hoa bay về đây góp gió
Làm thành vườn hoa,vườn hoa Tình Lam chúng mình"
Tình Lam rộng khắp bốn phương
Kết tình huynh đệ thân thương một nhà