28/3/14
Tiểu Sử HT.Thích Trí Tịnh – Một Đời Tu Tịnh Độ
Posted by Unknown on 22:28
Thân Thế Và Sự Nghiệp Hoằng Dương Đạo Pháp Của HT Thích Trí Tịnh
Hòa thượng pháp danh là Thiện Chánh, tự Trí Tịnh, pháp
hiệu Hân Tịnh, húy Nhựt Bình, thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41. Là
đệ tử của Hòa Thượng: Thượng Thiện Hạ Quang, khai sơn chùa Vạn Linh ở
núi Cấm, Châu Đốc. Hòa thượng thế danh là Nguyễn Văn Bình, sanh ngày 17
tháng 10 năm 1917 (02/09 năm Đinh Tỵ), tại xã Mỹ An Hưng (Cái Tàu
Thượng), huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp), là con út trong gia
đình có sáu anh chị em.
Tiểu Sử HT.Thích Trí Tịnh – Một Đời Tu Tịnh Độ
Thân phụ Ngài là ông Nguyễn Văn Cân, một nông dân chơn
chất. Cụ ông qua đời lúc Hòa thượng mới lên ba tuổi. Thân mẫu là bà
Nguyễn Thị Truyện, mất lúc Hòa thượng vừa được bảy tuổi. Vì mồ côi cả
cha lẫn mẹ quá sớm, nên Hòa thượng ở với người anh thứ ba là ông Nguyễn
Văn Đặng (nay đã qua đời). Hòa thượng có ba chị gái: thứ hai, thứ năm và
thứ sáu. Người thứ tư thì mất sớm.
Đến năm 10 tuổi, Hòa thượng mới vào học lớp năm (thời
đó, lớp năm là lớp thấp nhất). Hòa thượng rất thông minh, vừa học vừa
dạy lại các cháu. Ban đêm còn đọc truyện Tàu cho mọi người nghe. Đúng 15
tuổi, Hòa thượng học đến lớp đệ thất, rồi sang học chữ Nho với người
chú và học thuốc Bắc với người anh họ.
Hòa thượng thấy cảnh lục đục của gia đình anh chị nên
có ý xuất ly thế tục. Từ đây, Hòa thượng bắt đầu tìm hiểu đến các tôn
giáo như Thiên Chúa, Cao Đài, Thông Thiên Học v.v... và đặc biệt quan
tâm đến Phật giáo, vì chủ thuyết của các tôn giáo kia có nhiều điểm Hòa
thượng không thỏa mãn được. Từ đó, Hòa thượng âm thầm tập niệm Phật, trì
chú, và quán từ bi. Ngài đến các chùa, đa số thấy quý thầy chú trọng về
việc làm đồ mã, cúng bái, đi đám. Trên bàn thờ thì tối om, thờ nhiều
tượng, tượng nào cũng đội khăn đỏ trông phát sợ nên không có cảm tình
lắm. Hòa thượng cho rằng, các vị cao Tăng có lẽ ẩn dật nơi non cao núi
thẳm, nên có ý hoài vọng các chùa trên núi.
Năm 18 tuổi, Hòa thượng bắt đầu ăn chay trường. Ứng theo điềm chiêm bao, Hòa thượng thấy có một ông già bảo rằng:
"Con có căn tu, phải cần tìm thầy học đạo thì sẽ được như trong sách
ước", ông già còn bảo thêm: "Chừng nào cọp chết, rắn mới về non" (Hòa thượng tuổi Ty).
Năm 1937, lúc Hòa thượng 21 tuổi, cùng người bạn lên
Sài Gòn lập nghiệp, ở chung nhà trọ. Nhà ấy có một người đi chơi ở Tây
Ninh về mua được một con cọp con, đem về nuôi được chín, mười ngày thì
nó chết. Ứng điềm chiêm bao, Hòa thượng liền thu xếp tìm đường xuất gia.
Trước đó, tuy đã có ý định xuất thế cho sớm nhưng còn người chị thứ sáu
chưa lập gia đình nên không nỡ bỏ đi. Nay bà chị đã yên bề gia thất,
Hòa thượng yên tâm ra đi, để lại cho các anh chị mỗi người một lá thư và
một tấm hình.
Hòa thượng đi thẳng lên núi Cấm, vì trước đã nghe có
nhiều vị chân tu trên núi ấy. Vừa đến chân núi, vì quá vui mừng nên
quăng cả giày dép. Hòa thượng nhảy từ tảng đá này qua tảng đá khác và
nguyện ghé lại ngôi chùa nào trước thì sẽ xuất gia ở đó, dù chưa biết
chùa đó tên gì, trụ trì là ai. Và rồi nhân duyên đưa Ngài đến ngôi chùa
Vạn Linh, là một ngôi chùa ở xa và cao nhất. Hòa thượng vào chùa xin
xuất gia. Lúc đó, Hòa thượng trụ trì không ở trong chùa mà ở thất riêng
ngoài bìa rừng, chỉ khi nào có việc thì sau giờ Tịnh độ mời vào dạy bảo
Tăng chúng ít lời. Hôm ấy là tối 14 tháng 02 năm Đinh Sửu, ngày Sám hối
giữa tháng. Sau giờ Sám hối, chúng ra thưa, Hòa thượng trụ trì vào, Hòa
thượng trụ trì nhìn sững Hòa Thượng hồi lâu rồi mới nói rồi mới nói với
đại chúng: "Bay đừng khinh thường thằng này. Đời trước nó đã làm Hòa
thượng, đời nay nó cũng làm Hòa thượng, nhưng vì có tội hay nhìn con gái
nên đời này bị bệnh mắt suốt đời. Thế là hôm sau, Hòa Thượng được thế
phát vào ngày vía Phật nhập Niết bàn.
Sau khi xuất gia, Hòa thương lãnh việc viết sớ điệp.
Hòa Thượng trụ trì cho Ngài ở cái thất nhỏ trong vườn chùa. Ngoài các
việc và thời khóa trong chùa, Hòa Thượng còn ra thất tụng kinh và làm
bổn phận hết sức cần mẫn. Ngài hành khổ hạnh như nhịn ăn, ít ngủ, đến
đổi Hòa Thượng trụ trì phải cảnh cáo. Có lúc đang ăn, vì quá để tâm đến
sự tu nên rơi chén lúc nào mà không hay.
Nhận được tạp chí Từ Bi Âm, Hòa Thượng phát khởi ý
nguyện học rộng Phật Pháp. Cuối năm 1939, Hòa Thượng xin phép Hòa Thượng
trụ trì xuống núi về Saigon để tìm học kinh luật.
Về đến Saigon, Hòa Thượng cùng thầy Thiện Phước ra núi
Thị Vải tìm chỗ thích hợp để cất thất. Sau cùng, tìm được một điểm tương
đối tốt gần chùa Tổ (nay là Linh Sơn Bửu Thiền). Trong chùa có cho mượn
dụng cụ đốn cây và dẫn nước về. Thời gian đó chưa có ai ở nhiều, nên
sơn lam chướng khí rất nặng. Vì thế, chẳng mấy hôm, Hòa Thượng và thầy
Thiện Phước đều bị bệnh sốt rét, lên cữ từng cơn. Thấy không kham nổi
nên hai người đồng xuống chân núi. Thầy Thiện Phước thì tá túc nơi am
của bà Năm, Hòa Thượng thì tá túc nơi hang đá của bà Bảy. Vài hôm sau,
thầy Thiện Phước tịch. Hòa Thượng bèn về Saigon tá túc ở chùa Tịnh Độ,
Gò Vấp. Chùa này do ông Tư Lành làm xếp ga xây dựng lên. Nhà ông ở phía
trước, chùa xây phía sau có thỉnh quí thầy để trụ trì. Hòa Thượng đến
bệnh viện Saigon để điều trị nhưng cũng chẳng thuyên giảm. Thấy vậy,
Ngài tự nguyện với lòng: “Có chết như huynh Thiện Phước cũng chẳng sao”.
Thế nên, không quan tâm đến việc trị bệnh nữa mà phát tâm tả kinh Pháp
Hoa. Có một Phật tử biét tâm nguyện của Hòa Thượng, giúp tìm mua giấy
mực. Đến ngày 14 tháng 10 là tả xong. Đúng hôm ấy, trong khi gởi để đóng
lại thành quyển, chưa đem về thì có ông Mười là bổn đạo trong chùa đến
nói với Hòa Thượng: “Tôi biết có ông thầy kia trị bệnh sốt rét hay lắm, để tôi đưa huynh đến đó xem sao!”.
Ông bèn lấy xe đạp chở Hòa Thượng đến đó. Ông thầy
thuốc không có nhà riêng, ở đậu nhà người ta mà làm thuốc. Sau khi hỏi
bệnh trạng và giờ lên cữ, ông nói bệnh nặng lắm vì lên cữ khuya. Ông vào
nhà sau, một lúc đem ra cục thuốc để trên miếng giấy, quan sát thì Hòa
Thượng biết có ớt và tỏi đâm chung. Ông bảo trước khi lên cữ nửa tiếng,
lấy tay mặt với ra sau lưng, từ trên cổ lần xuống hết ngón tay giữa chấm
chỗ nào thì đó là huyệt cao quan, lấy cục thuốc ịn vào đó (cục thuốc
được để trên miếng giấy mỏng chừng 3 ngón tay), rồi cứ ngồi ngay ngắn
chờ. Hòa Thượng về làm y như vậy. Nửa tiếng sau khi ịn cục thuốc, cơn
sốt rét bắt đầu kéo đến. Như mọi lần, nó bắt đầu từ xương khu quặn lên
như con rắn bò, đến cục thuốc nó dừng lại và quặn vòng quanh đó dữ lắm
rồi lại ngưng, làm như vậy ba lần rồi ngưng luôn. Từ đó căn bệnh sốt rét
dứt hẳn.
Sau khi hết bệnh, Hòa Thượng ở lại chùa đó một thời
gian ngắn nữa. Về sau, có người em gái họ đã xuất gia, Pháp danh là Diệu
Trí ghé thăm. Cô ấy có khoe với Hòa Thượng là được học kinh này kinh nọ
và khuyên Hòa Thượng nên tìm học. Lúc bấy giờ, chỉ có trường An Nam
Phật Học mở ở chùa Báo Quốc tại Huế, trong tâm Hòa Thượng khởi ý đi Huế
từ đó.
Đầu năm 1940, Hòa Thượng về lại Cái Tàu để xin giấy ra
Huế học, nhưng chính quyền không cho, bảo Hòa Thượng phải ở lại năm bảy
tháng mới cấp giấy. Hòa Thượng không chờ được nên lên Saigon tìm cơ hội
để đi, được một thí chủ là ba Ba Hộ (chủ đất chùa Vạn Đức) cúng dường 15
đồng làm lộ phí. Đúng ra, đi tàu suốt đến Huế thì khỏe hơn, nhưng bấy
giờ, Huế thuộc vùng bảo hộ của Pháp, còn miền Nam là thuộc địa, nên ra
đấy phải có giấy như xin Passport ra nước ngoài vậy. Vì thế, Hòa Thượng
phải đi từng chặng. Hòa Thượng lên tàu đi Phan Thiết, đến nơi thì đã
trưa, Hòa Thượng kêu xe kéo đến chùa nào gần cũng được, vì thật sự cũng
không biết chùa nào mà đến. Xe kéo Hòa Thượng đến chùa Bình Quang, Hòa
Thượng vào chùa xin cơm. Chùa dọn cơm xong, lúc sắp ăn thì vị Ni trụ trì
nói: “Huynh à! Chư Tăng ở đây đi đường hay ăn cơm là phải mặc áo dài, sao huynh không mặc?”. Hòa Thượng làm thinh, trong bụng thầm nghĩ: “Cũng muốn mặc lắm nhưng có đâu mà mặc”.
Sau này vị Ni đó vẫn còn nhớ chuyện cũ, trong tâm tiếc rằng phải chi
lúc ấy cúng dường cho Hòa Thượng một hai cái áo dài nào có khó gì, lại
còn gieo được phước lành cúng dường bước đầu cho một vị cao Tăng sau
này.
Sau khi ăn cơm xong, Hòa Thượng lại tiếp tục ra bến xe
để đi Bình Định, vì trước khi đi, Hòa Thượng có đến tòa soạn báo Từ Bi
Âm, gặp Hòa Thượng trụ trì chùa Liên Tôn ở Bình Định, lúc đó là Phó chủ
bút, còn Hòa Thượng Bich Liên làm chủ bút. Ra đến Bình Định, Hòa Thượng
tìm lại chùa Liên Tôn. Hôm đó, Hòa Thượng trụ trì còn ở Thành phố chưa
về. Trong chùa, chỉ có một vị thầy trông coi gọi là thầy Khố. Ít hôm
sau, Hòa Thượng trụ trì về, có cả cô Diệu Trí và có thị giả. Hòa Thượng
bèn xin tạm ở đây tu học. Hòa Thượng trụ trì nhờ Hòa Thượng viết lại Bát
Nhã tâm kinh mà Hòa Thượng đã giảng và in từng kỳ trong báo Từ Bi Âm,
ghép lại thành tập để in ra phổ biến. Thời gian đó, Hòa Thượng trụ trì
có giảng “Cảnh Sách Cú Thích Ký”, chủ yếu là dạy cho cô thị giả, Hòa
Thượng và cô Diệu Trí cũng theo học. Cô Diệu Trí có nhờ ngoài Bắc thỉnh
một số kinh chữ Hán, giúp đỡ cho Hòa Thượng có tài liệu để học. Cô Diệu
Trí đề nghị Hòa Thượng nên ra Huế vào trường học tốt hơn. Thế nên, Hòa
Thượng ở đó được ba tháng thì tiếp tục lên đường ra Huế, còn cô Diệu Trí
thì về lại Saigon. Lúc đó là tháng 08 năm 1940.
Ra đến Huế, Hòa Thượng cũng không biết đến chùa nào,
mới nhờ mấy người kéo xe. Họ nói ở chùa Tây Thiên có quí thầy ở miền Nam
ra. Hòa Thượng nhờ họ kéo đến đó. Chùa Tây Thiên là chùa của Hòa Thượng
Giác Nhiên, vị tăng Thống thứ hai của GHPGVNTN. Ở đó, Hòa Thượng gặp
Hòa Thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa. Hòa Thượng Giác Tâm chùa Duyên Giác ở
Bến Tre thì đã ra trường trước. Ở đây cũng có dạy kinh Lăng Nghiêm. Sau
buổi học, thầy Giác Tâm bảo Hòa Thượng đọc lại phần đã học. Hòa Thượng
đọc lại, giảng nghĩa rành rẽ. Thầy Giác Tâm thấy thế mới đề nghị Hòa
Thượng nên đến trường lớp, vấn đề liên hệ thầy Giác Tâm sẽ lo cho.
Hòa thượng được nhận vào học và được cấp học bổng, vì
một thân một mình không ai bảo trợ. Khi Hòa thượng vào học thì lớp đó là
năm thứ sáu của Tiểu học (Sơ cấp) còn vài tháng nữa là thi lên Trung
học (Trung cấp). Các môn khác thì Hòa thượng học không khó lắm, chỉ có
môn Duy Thức là mù tịt không biết gì. Lúc đó đang dạy Duy Thức Dị Giản
sắp hết, Hòa thượng mới mượn tập xem lại từ đầu và dần dần hiểu ra. Sao
khi hết quyển cho làm bài kiểm tra với chủ đề là Bát Thức Đồng Dị. Bài
đó, Hòa thượng được chấm chín điểm rưỡi, cao nhất lớp. Việc này đã làm
xao động trong chúng. Hòa thượng được Hòa thượng Đốc Giáo để ý. Đến cuối
năm, khi thi lên Trung cấp, học chúng lo ngại nếu Hòa thượng đứng đầu
thì mất thể diện những người học lâu. Sau khi thi viết, đến phần khảo
hạch miệng. Bác sĩ Lê Đình Thám phụ trách môn này. Cách thi là lật quyển
sách nhằm trang nào thì giải thích trang đó. Vì lật nhằm trang chưa học
nên Hòa thượng giải thích chưa được trúng lắm. Giáo sư Lê Đình Thám
cười và nói: "Chú này đến sau, mà sau này sẽ hữu dụng!". Chung cuộc, Hòa thượng cũng được đứng hạng bảy.
Đầu năm 1941, Hòa thượng thọ giới Sa-di tại Huế với Đại
lão Hòa thượng chùa Quốc Ân. Sau đó, tiếp tục học lên Trung đẳng và tốt
nghiệp vào cuối năm 1942. Đến năm 1945 thì tốt nghiệp Cao đẳng. Cũng
năm này, trường An Nam Phật Học dời vào Tòng Lâm Kim Sơn, Hòa Thượng
được Hội và Ban giám đốc cử làm Giám viện Quản đốc trường. Kế đó, vì nạn
đói ở Huế cũng như cả miền Bắc, nhà trường quyết định chuyển học Tăng
Sơ đẳng và Trung đẳng khoảng 40 vị vào Nam và giao toàn chúng cho Hòa
thượng quản lý. Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng Trí Quang lo chỗ nơi,
mục tiêu hướng đến là Lưỡng Xuyên Phật Học. Vào đến Nam, đoàn học Tăng
tạm ở lại chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho do thầy Trí Long trụ trì. Thầy Trí
Long cũng là một học Tăng trong đoàn. Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng
Trí Quang trở về Lưỡng Xuyên lo sắp xếp, còn Hòa thượng về chùa Kim
Huê, Sa Đéc tạm ở và lo nhập thất. Ngày 19 tháng 06 năm 1945, Hòa thượng
được thọ Đại giới tại Đại Giới Đàn tổ chức tại chùa Long An, Sa Đéc, do
Đại lão Hòa thượng chùa Kim Huê làm Hòa thượng đàn đầu.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 phát động, Lưỡng Xuyên
Phật Học bị phân tán. Hòa thượng Thiện Hoa về chùa Phật Quang ở Trà ôn,
Cần Thơ do Hòa thượng Thiện Tâm là anh ruột làm trụ trì, xây dựng tạm
mái trường. Hòa thượng từ Sa Đéc về Phật Quang, cùng Hòa thượng Thiện
Hoa tập họp các học Tăng lập thành trường Phật Học Phật Quang, khai
giảng vào cuối năm. Học Tăng trường Phật Quang phần đông là học viên mới
còn tốp cũ phần động tự phân tán vì quốc biến.
Cuối năm 1946, gặp nạn thổ dậy, địa phương không được
ổn định. Hòa thượng dời một số học Tăng về tạm ở chùa Vạn Phưóc, Phú
Lâm, Chợ Lớn. Sau đó, Hòa Thượng cùng thầy Huyền Dung xây dựng thành lập
Liên Hải Phật Học Trường, quy tụ số học tăng khoảng 70 vị từ khắp các
nơi về. Trong đó có Hòa Thượng Đạt Từ ở chùa Thiền Tôn (Thủ Đức) đến
giúp và giữ chức Giám trường, Hòa Thượng Quảng Liên và Hòa Thượng Quảng
Huệ cũng về hợp tác, thầy Minh Cảnh được xuất gia ở đây, Hòa Thượng đã
tổ chức được một Đại giới đàn tại đây và Hòa Thượng Quảng Liên cũng như
Hòa Thượng Bửu Huệ được thọ Đại Giới tại giới đàn này.
Đến năm 1950, Hòa Thượng có bệnh phải đi dưỡng bệnh ở
chùa Linh Sơn, Cổ Tự (Vũng Tàu), nên giao toàn trường cho Hòa Thượng
Thiện Hoa vừa ở Bắc về quản lý. Năm 1951, Hội chùa Linh Sơn thỉnh Hòa
Thượng làm trụ trì và giao toàn quyền quản lý.
Năm 1952, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt được thành lập ở
Saigon, Hòa Thượng được mời giữ chức Trưởng Ban Giáo Dục và Trưởng Ban
Giám Luật. Kế đó, Giáo Hội Tăng Già toàn quốc được thành lập, Hòa Thượng
được cử vào các chức vụ: Trưởng Ban Giáo Dục, Ủy viên Phiên Dịch Tam
Tạng và Phó Trị Sự Trưởng, vì có nhiều trọng trách trong GIáo Hội nên
tháng 04 năm 1954, Hòa Thượng trao quyền trụ trì chùa Linh Sơn lại cho
Thượng Tọa Tịnh Viên, cho đến năm 1995 thì Thượng Tọa Tịnh Viên viên
tịch.
Với hoài bão truyền đăng tục diệm, hoằng dương chánh
pháp, kiến tạo Già Lam, Hòa Thượng được Phật tử cung thỉnh về ngôi chùa
cổ kinh không người thừa kế trên một vùng đất hoang vu vắng vẻ ít người
đi lại, tọa lạc tại ấp Bình Đức, xã Tâm Bình, quận Thủ Đức, phường Tam
Phú, quận Thủ Đức, TPHCM. Nơi đây, Hòa Thượng khai sơn tạo dựng Già Lam,
lấy tên là Vạn Đức. Lần lần, do uy tín và đạo đức của Hòa Thượng, Tang
Ni quy tụ về cất chùa am chung quanh, biến nơi này thành một đạo tràng
lớn mà hiện nay, nói đến đạo tràng Vạn Đức ai ai cũng đều biết.
Năm 1955, với chí nguyện hoằng dương tịnh Độ, hướng dẫn
chúng sanh đời mạt pháp, Hòa Thượng thành lập Cực Lạc Liên Hữu, khuyến
tấn người niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh Độ. Cực Lạc Liên Hữu được Hòa
Thượng khai hóa đã khơi dậy phong trào tu tập, khuyến tấn hành giả tín
hướng chỉ quy Tịnh Độ. Hòa Thượng là vị Tổ Sư đương thời chấn hưng Tịnh
Tông trong tòa nhà Phật Giáo Việt Nam. Hòa Thượng rất quán triệt Thánh
điển, tinh tường y dược Đông Phương, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam thấm
nhuần được kinh điển Đại Thừa phần lớn do công trình dịch thuật của Hòa
Thượng.
Dịch phẩm của Hòa Thượng rất có giá trị, Hòa Thượng quý
chuộng điều căn bản là dịch đúng nghĩa, chính xác, rõ ràng chơn chất,
không bóng bẩy, âm vận êm xuôi, để người đọc tụng lưu thông, thầm nhận
được nghĩa thú rất rõ ràng, dễ nắm bắt được ý chỉ của kinh.
Năm 1947, Hòa Thượng dịch kinh Pháp Hoa ở Liên Hải Phật Học Trường. Sau đó là kinh Tam Bảo, Địa Tạng, Phẩm Phổ Hiền.
Năm 1951, do yêu cầu của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Hòa Thượng Việt dịch Bồ Tát giới để tụng trong ngày Bố Tát.
Năm 1952, trước tác bộ Đường Về Cực Lạc tại chùa Linh Sơn, Vũng Tàu.
Năm 1964, dịch kinh Hoa Nghiêm ở chùa Vạn Đức, rồi tiếp tục kinh Đại Bát Niết Bàn, Đại Bát Nhã.
Năm 1972, dịch Đại Bửu Tích, Hán Bộ 01-120.
Năm 1978, được phép in nên dịch thêm hai tập, Hán Bộ từ 121-150.
Rồi dịch Văn Thù Vấn Bát Nhã, Hán Bộ từ 151-155; Vô Tận Ý Bồ Tát, Hán Bộ từ 156-159; Thập Lục Quán Kinh, Hán Bộ 160.
Tất cả ghép chung vào Đại Bảo Tích để tiện viện xin phép.
Năm 1962, Hòa Thượng được bổ nhiệm làm Phó Viẹn Trưởng Phật Học Viện Trung Phần.
Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thành
lập, Hòa Thượng làm Trưởng đoàn Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Việt Nam,
được suy cử làm Tổng Vụ Trường Tổng Vụ Tăng Sự.
Năm 1973, làm Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo.
Năm 1978, Hòa Thượng được Hòa Thượng Tăng Thống tấn
phong giáo phẩm cùng ba vị là: Hòa Thượng Trí Nghiêm ở Nha Trang, Hòa
Thượng Giác Tánh ở chùa Nguyên Thiều, Bình Định và Hòa Thượng Minh Tâm ở
Phan Rang.
Huy hiệu bánh xe Pháp Luân 12 căm của GHPGVNTN là ý kiến của Hòa Thượng (Tam chuyển Pháp Luân Tứ Đế).
Năm 1981, GNPGVN thành lập, Hòa Thượng được suy cử làm Phó Chủ Tịch Thường Trực.
Năm 1982, kiêm thêm Trưởng Ban Trị Sự Thành Hội.
Năm 1984, Hòa Thượng chính thức được suy cử làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Năm 1987, kiêm thêm Trưởng Ban Tăng Sự, giao Trưởng Ban Trị Sự Thành Hội cho Hòa Thượng Thiện Hào.
Năm 1992, kiêm thêm Đệ Nhất Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật đến bây giờ.
Hòa Thượng cả đời tận tụy vì Phật Pháp, luôn lấy việc
học kinh, tụng kinh, niệm Phật, giảng dạy và phiên dịch kinh điển từ Hán
Tạng ra Việt Văn làm chánh hạnh của đời mình. Hiện nay, tuy tuổi đã 90,
nhưng tinh thần Hòa Thượng vẫn sáng suốt. Thân còn khỏe mạnh, tâm
chuyên niêm Phật, vì sự lợi tha, cứ vào nửa tháng, Hòa Thượng lại truyền
giới Bát quan trai cho hàng Phật tử tại gia đến tu học tại chùa Vạn
Đức.
Hòa Thượng thật là một tấm gương sáng, một bậc chân tu sáng ngời đạo hạnh trong lòng Tăng Ni Phật tử Việt Nam.
Giới Thiệu Blog Tình Lam
Nơi đây giao lưu kết nối anh chị em áo lam khắp mọi nơi.
Nơi cảm nhận những cảm xúc vui buồn của dòng máu Lam.
Nơi mang đến những nét đẹp của tình lam, cùng đồng hành sát cánh với anh chị em áo lam Quốc Nội & Hải Ngoại.
Tình Lam mong càng ngày phong phú hơn với các bài viết sưu khảo từ các nơi.
Xin hãy cùng chung tay chia sẻ với Tình Lam cho vòng tay thân ái luôn mãi kết chặt tình lam.
"Mỗi người là một cành hoa bay về đây góp gió
Làm thành vườn hoa,vườn hoa Tình Lam chúng mình"
Tình Lam rộng khắp bốn phương
Kết tình huynh đệ thân thương một nhà
0 nhận xét:
Đăng nhận xét