Kính thưa quý anh chị,
Cùng các em thân mến.
Tôi nhớ có một câu hát trong bài “Mừng xuân Di Lặc” của Minh Châu: “Đời minh phong sương từ khi bước chân vào đời lam áo”, câu này đã bộc lộ ra cái sức sống của Gia Đình Phật Tử chúng ta. Nào những khi gối đất, nằm sương liên tiếp di chuyển qua cả tuần trại huấn luyện Lộc Uyển; hoặc băng rừng lội suối lúc đi theo sơ đồ lộ trình, khi phải vẽ bản đồ Giwell; cỏ gai cào xước, đỉa vắt chực chờ bên mé nước, lâu lâu nghe tiếng la của mấy chị bị đỉa hút máu thật “kinh hoàng!”, chiều về tuy được tắm mát nhưng áo lam có khi mấy ngày chưa thay! Những ngày vui sống nơi hoang sơ ăn uống qua loa, có tương chao là quí, nếu thêm bát canh chua tẩy trần, giải cảm, thông cổ lại càng ngon miệng ca hát hay hơn! Lúc đó anh nào cũng hay, chị nào cũng tài, cả đoàn người tay trên vai đi rầm rập “Một cây số mỏi chân rồi” hay bò lăn giật giật tay chân, lúc lắc cái đầu theo điệu ngày xưa Ma vương qui hàng đức Phật. Anh hay chị dù 60, 70 tuổi tuy có thể hòa đồng cùng nhau chơi vui hết mình nhưng chẳng ai nói là các bậc lão thành không có “ tôn nghiêm” cả.
Cũng có thể nói đời áo lam phong sương, mặc áo lam là thường hành bình đẳng nguyện. Không có phân biệt giàu-nghèo, sang-hèn, và càng không thấy có sự thấp cao trong sự thành đạt hay thất bại về công danh xã hội. Anh chị nào thành đạt giàu sang, địa vị cao ngoài đời thì chúng ta vui mừng nhưng vấn đề riêng tư ấy không quan trọng bằng các anh chị ấy đã hy sinh, cống hiến, phục vụ cho gia đình phật tử như thế nào; anh chị nào thất bại, đời sống gia đình thiếu khó thì chúng ta quan tâm san sẻ, trong lam sử đã có rất nhiều huynh trưởng an nhiên sống đời “bần cư thủ Đạo” dù sống trong khó nghèo nhưng công đức phục vụ cho tổ chức rất cao. Chúng ta phải nghiêng mình, ngả nón cúi chào và học hỏi cái tinh thần vô ngã vị tha chân thật ấy để đại gia đình áo lam chúng ta dù trải qua bao phen sóng gió vẫn tồn tại đây.
Người học Phật nên thấy, trong tham lam đã ẩn chứa sẵn mầm đói khát của Ngạ quỷ; trong sân hận có sẵn lửa thiêu của lòng nộ giận của luyện ngục A Tỳ. Tham lam và sân hận làm mê mờ nhân tính để thế nhân hỗn độn si mê sa vào đường dữ súc sinh. Ba thứ này Phật Pháp gọi là Tam Độc, là căn gốc sâu dày bền bỉ làm cho muôn kiếp trầm luân. Cho nên khi gặp chuyện ta phải thẩm xét tự mình để không tham, bớt tham; không sân, bớt sân – hai hành trạng này bị kiểm thúc thời nhân tính hiển lộ, trí giác hiện tiền. Nhưng tuổi trẻ chúng ta thường nông nổi theo ngọn lửa nhiệt thành hay lấy sự thành bại, tri thức, sở đoản, tìm tòi những sơ hở của nhau để phân biệt thấp cao, hoặc im trong lòng để xem thường; hoặc đem ra tranh cãi không sợ phí thời gian để “tìm ra chân lý”. Đó là hành trạng của ly nước tràn, của vũng chân trâu gặp trời mưa – sự si mê thứ tư là KIÊU MẠN. Kiêu mạn chính là thuốc độc, là Độn sử thứ tư trong THAM-SÂN-SI-MẠN-NGHI cũng có tác hại ghê gớm không thua gì tam độc.
Có một số huynh trưởng giữ thói quen hay bác bỏ ý kiến của người khác dù nghe chưa hết câu. Đó là dấu hiệu rất rõ của kiêu mạn. Chúng ta cũng vậy, nếu cứ thích gạt ngang ý kiến của người khác, phải biết là kiêu mạn đã ngự trị trong tâm mình rồi. Chính tâm kiêu mạn đã thúc đẩy chúng ta hay săm soi khuyết điểm của người và bỏ qua ưu điểm của họ. Vì kiêu mạn, chúng ta muốn người chung quanh phải dở, xấu để chỉ còn ta là hay giỏi. Thế nên chỉ cần người khác nhúc nhích là ta đã đoán ra khuyết điểm – đôi khi suy diễn lẹ hơn sự thật, nghĩa là chỉ cần người đưa tay lên là ta nghi người này sắp đánh ai đó! Cái khuynh hướng thích nghĩ xấu người khác rõ ràng có nguồn gốc từ kiêu mạn. Còn nuôi dưỡng tâm kiêu mạn chính là nuông chìu vô minh, mặc cho ma chướng ngăn che khiến ta không thấy được cái hay của người.
Trái với lòng Kiêu Mạn là tâm Khiêm hạ. Tâm khiêm hạ giống như cái trũng sâu khiến cho bao nhiêu nước đổ dồn về. Người khiêm hạ sẽ từ từ lấy được vô số đức tính tốt trong thiên hạ. Lão tử trong Đạo Đức kinh có câu nói nổi tiếng: “Tại sao biển cả làm vua của trăm sông, bởi vì biển thấp mà sông cao nên các sông phải chầu về.”
Lòng bao dung của tâm Khiêm hạ là biết lắng nghe ý kiến của người khác. Ý kiến của người nào chính là đại diện của người đó. Nếu ta tôn trọng con người, ta phải tôn trọng ý kiến của họ. Đó là nguyên tắc căn bản. Dĩ nhiên không phải ý kiến nào cũng đúng, nhưng thái độ biết lắng nghe đã là biểu lộ sự tôn trọng con người. Khi lắng nghe, ta sẽ đồng ý với một số điểm này và không đồng ý với một số điểm khác, nhưng điều quan trọng của Đạo đức là biết quan tâm đến quan điểm của người khác trước đã.
Khi khiêm hạ, thấy mình tầm thường nhỏ bé, tự nhiên ta dễ nhìn thấy ưu điểm của người để học hỏi. Đó cũng là động cơ khiến ta biết lắng nghe ý kiến của người khác. Rồi những khi tìm thấy những điều hay của người, lòng chúng ta hoan hỷ tán thán. Và khi biết hoan hỷ trước ưu điểm của người, Nhân quả sẽ cho chúng ta một quả báo lành tương tự ở vị lai. Khi cảm phục, hoan hỷ tán thán điều lành của người, tự nhiên điều lành đó sẽ in vào tâm ta, trở thành tánh tốt của ta.
Các huynh trưởng trẻ có thể nuôi ước vọng chinh phục các đỉnh cao, nhưng cao bao nhiêu vẫn không quan trọng bằng lòng chúng ta bao dung sâu rộng bao nhiêu. Lòng bao dung ấy chính là đại lượng của Từ bi, như đại dương kia có bao giờ phàn nàn rằng các sông sao cứ tuôn hoài nước dơ ra biển cả! Nếu cứ thấy mình là giỏi nhất thì sẽ không còn học hỏi được nữa.
Nếu chúng ta không hiểu chuyện để tu tập thuần hóa chính mình, chỉ biết hô khẩu hiệu Lục Hòa như soi hình tạo dáng trước gương thì dù có Thân hòa đồng trú thì cũng khó tránh Khẩu hòa vô tránh, nguyên nhân của sự phá tán, chia lìa nếu không chịu tự mình biết khiêm hạ lắng nghe.
Nguyên Hoàng
Theo (www.gdptthegioi.org)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét