Từ một cây mai
Trước Tàng Kinh Các, chùa Phước Duyên – Huế, có hai cây mai, năm này nở
rất đẹp, lá lộc rất non và xanh tươi mơn mởn. Mỗi ngày tôi dành mười
phút để ngắm nhìn những cây
hoa mai ấy và đã học hỏi từ nó rất nhiều.
Trời vào hạ, lá của mai sạm nắng, nên màu xanh rất đậm, đến trời vào
thu, màu xanh sạm nắng của mai ngã sang màu vàng nhạt và trời vào đông,
mưa rét lạnh, lá của mai vàng hẳn, thỉnh thoảng đùa với gió đông và từ
từ tự rơi xuống nằm yên với đất và cuối đông thì mai chỉ còn lại thân
cây đứng khẳng khiu, trơ trụi. Nhưng khi tiết vào xuân, cây hoa mai ươm
nụ nở hoa và ra lộc non xanh mơn mởn. Tiết vào đông nhìn cây hoa mai cô
quạnh, khẳng khiu bao nhiêu, thì khi tiết xuân đến, cây hoa mai cho ta
thấy sức sống tràn đầy, nụ ươm và nở hoa vàng rực rỡ, rồi suốt cả mùa
xuân, cây hoa mai cho ta lộc non, xanh tươi mơn mởn trông thật đẹp mắt
bấy nhiêu.
Nhìn cây hoa mai qua bốn mùa, cây hoa mai cho tôi bài học
“thủ tiết” và tôi đã học hạnh
“thủ tiết” từ cây mai. Nhìn cây hoa mai qua bốn mùa, cây hoa mai cho tôi bài học
“ứng xử” và tôi học hạnh
“ứng xử” từ cây hoa mai. Hạnh của cây hoa mai là hạnh
“tùy duyên mà thủ tiết; thủ tiết mà tùy duyên”. Hoa mai vận hành theo bốn mùa mà vẫn giữ được cái tinh tiết của mình đúng chỗ, và thể hiện cái tinh tiết đó đúng lúc. Đó là
“cốt cách và ứng xử của mai”.
Cốt cách và ứng xử ấy, tôi đã học từ nơi hai cây hoa mai trước Tàng Kinh Các của chùa Phước Duyên – Huế mỗi ngày. Tôi
xem hai cây hoa mai ấy là hai vị Bồ tát của tôi đã dạy cho tôi mỗi ngày, bằng ngôn ngữ tịch lặng và sống động của
“thủ tiết và ứng xử”, chứ không phải bằng ngôn ngữ quy ước hay công thức cứng đờ.
Khi cây mai nở hoa đẹp, lá xanh non mơn mởn, môi trường của mai thanh
cao, tôi đã thấy ít ra là sáu chủng loại xuất hiện và thân thiện với
mai. Chú tắt kè; chú sâu; chú bướm; chú ong; chú chim sẽ; chú mèo. Chú
tắt kè nằm
hong
nắng xuân trên cành lá của cây mai ngẩng đầu lên cao về phía mặt trời;
chú sâu nằm thu mình nơi nhụy của hoa mai; chú bướm bay tung tăng chạm
vào phấn của hoa mai với đôi cánh vỗ thật nhẹ nhàng; chú ong bay vào,
bay ra, bay đi, bay lại rộn ràng hút nhụy của hoa mai; chú chim sẽ bay
qua, bay lại, nhảy nhót reo hót và bắt những chú sâu trong nhụy mai để
ăn một cách thích thú; chú mèo ngồi dưới gốc mai nhìn lên những chú chim
sẽ trên cành mai để chờ có cơ hội là nhảy đến vồ chụp. Nhiều chủng loại
chăm chú rộn ràng với mai như vậy, nhưng mai thì bất động. Tôi học bài
học
“bất động” từ mai, trước những biến động của muôn loài. Nhờ
bất động
trước những xôn xao ấy, nên mai đã tạo ra được một cốt cách cho chính
mình và dáng vẻ, hương vị mùa xuân cho muôn loài. Muôn loài thì hăm hở
dáng vẻ và hương vị của mai, nhưng mai thì bất động trước những biến
động rộn ràng ấy, đó là
cốt cách của mai; đó là nét thanh cao của mai. Cốt cách và thanh cao ấy, mai phải
kham nhẫn và tinh tấn luyện
tập mỗi ngày qua mùa hạ; mỗi ngày qua mùa thu; và trong từng ngày lạnh
buốt khắc nghiệt qua mùa đông, để khi xuân đến, thì mai là xuân, của
xuân, cho xuân và để cho muôn loài tùy duyên vui hưởng. Tôi đã học bài
học
kham nhẫn và tinh tấn từ mai. Và qua mai, tôi cũng đã nhận ra, tại sao đức Phật ca ngợi hạnh kham nhẫn là đạo lý bậc nhất?
Nhờ
hạnh kham nhẫn mà mình có thể thực hiện được những gì mình có thể ước
nguyện và nhờ hạnh tinh tấn mà mình có khả năng biến những ước nguyện
của mình trở thành hiện thực. Nên, với
hạnh kham nhẫn và tinh tấn,
ta có thể tạo ra hương vị xuân cho chính ta và cho cả muôn loài. Vì
vậy, tôi đã thấy hạnh của Bồ tát từ nơi hai cây hoa mai, trước Tàng Kinh
Các của chùa Phước Duyên – Huế mỗi ngày, và mỗi ngày đi qua trong mùa
hạ, mùa thu, mùa đông, mùa xuân tôi đều chắp tay, cúi đầu trước hạnh của
hoa mai.
Nhìn lại tâm ta
Trong
kinh A-hàm, đức Phật dạy:
“Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác”. Nghĩa là mọi
chuyện
khổ đau hay hạnh phúc; hy vọng hay thất vọng; yêu đời hay chán nản; địa
ngục hay thiên đàng; phàm phu hay hiền thánh, Phật hay chúng sanh; Tịnh
độ hay Ta bà đều do tâm ta tác động mà tạo thành. Tâm gắn liền với trí
tuệ, với từ bi hỷ xả, với độ lượng bao dung, thì tâm sẽ tạo ra hạnh
phúc, an lạc, thiên đàng, tịnh độ cho ta. Tâm gắn liền với vô minh, tham
dục, sân hận, si mê, ích kỷ, kiêu mạn, thì tâm sẽ tạo ra khổ đau, thất
vọng, chán nản, oán thù, địa ngục cho ta. Nơi tâm ta, chứa đựng đầy đủ
hai năng lực tiêu cực và tích cực đối với cuộc sống. Nếu ta sống với
khuynh hướng nào, tâm ta sẽ có khả năng tạo ra cho ta cảnh giới đúng với
khuynh hướng ấy của tâm ta. Và tâm ta như thế nào, thì khi đối diện với
cảnh vật hay môi trường chung quanh, ta sẽ cảm nhận đúng như những gì
mà cái biết ở trong tâm ta lượng định. Vì vậy, trong kinh Thủ Lăng
Nghiêm, đức Phật dạy
“Tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng”. Nghĩa là
“mọi sự hiểu biết hay cảm nhận đều tùy theo tâm lượng định của chúng sanh”.
Tâm ta ngang đâu thì ta hiểu biết và cảm nhận sự sống ngang đó, chứ
chân lý của sự sống không phải ngang tầm với tâm ta hiểu biết và cảm
nhận. Cho nên, các chủng loại khi đối diện với hoa mai, thì tùy theo tâm
thức hiểu biết của từng chủng loại mà ứng xử và cảm nhận, chứ cốt cách
của mai đâu có phải do những cảm nhận ấy của các chủng loại mà nó trở
thành ra những cái ấy.
Xuân là khôi nguyên của sự sống; là tinh hoa của tâm; là rực sáng của tự tánh, nên:
“Dễ ai trong cõi tang bồng ấy, ôm được Chúa xuân thỏa một lần”.
Ta đa đoan, vì tâm ta hỗn độn trăm mối; đời sống ta đa đoan, vì tâm ta
tính toán lợi hại hơn thua đủ điều; ta bao phen chìm nổi, vì tâm ta bận
rộn thị phi của mọi người và muôn vật; ta thất vọng, khổ đau, vì tâm ta
tham dục quá nhiều. Nên, xuân đến với ta cũng chỉ là những hỗn độn trăm
mối; cũng chỉ là những lợi hại hơn thua đủ điều; cũng chỉ là những thị
phi lắm chuyện trên đời. Nhưng đó chỉ là xuân của tâm ta, chứ đâu phải
là xuân của xuân và xuân của những tâm hồn tinh khôi, rực sáng và tĩnh
lặng và đâu có phải là xuân của khôi nguyên.
Nên, mỗi khi xuân đến, ta có cơ hội nhìn lại tâm ta để trở về sống với bản tánh tinh khôi, rực sáng nơi tâm, để ta hiện hữu với Chúa xuân và Chúa xuân cùng với ta hiện hữu.
Con đường trở về
Có một du khách hỏi vị Thiền sư:
“Thế nào là xuân?”. Sư trả lời:
“Đừng mò trăng dưới nước”. Khách nói:
“Không hiểu”. Sư nói:
“Tâm đã sạch mặc áo gì cũng đẹp; lòng vô ưu còn hỏi chuyện chi xuân!”. Khách cười. Sư mời khách:
“uống trà đi!”.
Buông bỏ mọi tạp niệm, ngay cả những ý niệm về xuân để trở về với tâm,
ta sẽ gặp tâm xuân của ta. Tâm xuân là Chúa xuân của đời ta và muôn vật.
Bấy giờ ta sẽ thấy Chúa xuân tức khắc sáng rực, hiện ra nơi tâm ta, cho
ta một mùa xuân hồn nhiên, đầy tin yêu và sức sống, đủ can đảm nhìn vào
những biến thiên với muôn hình vạn trạng của con người và xã hội để mỉm
cười một cách an nhiên.
Nếu ta không buông bỏ tạp niệm về xuân, thì ta chỉ là những lữ khách
chạy rong theo hình bóng của xuân, chẳng khác nào những kẻ đa tình lăn
xăn đi tìm trăng, nhảy xuống đầm sâu để mò trăng đáy nước!
Ta buông bỏ mọi tạp niệm về xuân, thì tức khắc tâm xuân cùng với ta hiện
hữu. Ta đem tâm xuân ấy mà cúng dường đức Phật, Thầy Tổ; Ta đem tâm
xuân ấy mà thắp hương tưởng niệm, nghĩ đến Tổ tiên ông bà, cha mẹ, người
thân đã qua đời, dù đang ở thế giới nào cũng sống với tâm xuân và có
tâm xuân để sống; đồng thời cầu nguyện cho những người thân yêu của mình
dù đang còn sống bất cử ở phương trời nào, cũng có thể quay về được với
tâm xuân, để có những phút giây sống thật đẹp và thật yên bình ngay nơi
nhân thế. Và ta cũng đem tâm xuân đó, cầu nguyện cho mọi người, khắp
trong mọi giới, ai ai cũng đều biết quay về với tâm xuân, noi theo đường
tu tập, bỏ ác làm lành, để cùng nhau tạo hưởng được một mùa xuân đích
thực.
Thích Thái Hòa