TIỂU SỬ HOÀ
THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ
Hòa
thượng họ Nguyễn, húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo
Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngài sinh ngày 19 tháng 9 năm
Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh
bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (Nay
là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị.
Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị
Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù
là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã
được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức - Huế.
Năm
1926, khi được 17 tuổi, Ngài thực thụ xuất gia thọ giáo
với Hòa thượng Viên Thành tại chùa Tra Am ở Huế. Năm Ngài
20 tuổi (1929), được Bổn sư cho vào thọ giới Cụ Túc (Tỳ
Kheo) tại Đại giới đàn chùa Từ Vân ở Đà Nẵng. Tại
đại giới đàn này Ngài trúng tuyển Thủ Sa Di trong số 300
giới tử. Do đó, Bổn sư đã ban cho Ngài pháp hiệu là Thích
Trí Thủ, ngụ ý khen tặng chữ THỦ là đứng đầu. Cũng
vừa năm đó, Bổn sư của Ngài là Hòa thượng Viên Thành
viên tịch. Ngài ở lại chùa Tra Am hai năm để thọ tang. Năm
1932, Ngài vào học tại Phật học đường Trúc Lâm do Hòa
thượng Giác Tiên thành lập và mời Hòa thượng Phước Huệ
ở chùa Thập Tháp-Bình Định ra làm chủ giảng.
Trong
thời gian theo học tại Phật học đường Trúc Lâm, gặp lúc
phong trào chấn hưng Phật giáo khởi phát ở miền Trung, Ngài
tích cực tham gia, cùng với các pháp lữ khác góp phần rất
lớn. Ngài đã từng làm giáo thọ, dạy ở trường Phật Học
Phổ Thiên, Đà Nẵng.
Cuối
năm 1934, Ngài trở ra Huế, cùng các pháp lữ ngày trước tổ
chức trường Phật học ở chùa Tây Thiên, cung thỉnh Tăng
Cang Giác Nhiên ở chùa Thuyền Tôn làm giám đốc, Hòa thượng
Phước Huệ ở chùa Thập Tháp-Bình Định làm đốc giáo.
Cùng thời gian này, Ngài còn làm giảng sư cho Hội Phật Học
Thừa Thiên và lớp Trung đẳng Phật học cũng mở tại chùa
Tây Thiên, cùng kiêm nhiệm việc giảng dạy tại trường Tiểu
học Phật học mở tại chùa Báo Quốc - Huế.
Năm
29 tuổi (1938), sau khi tốt nghiệp trường Phật học Tây Thiên,
Ngài được sơn môn cử về trú trì Tổ đình Ba La Mật. Ngài
vẫn tiếp tục công việc giảng dạy và hỗ trợ cho các trường
Phật học. Năm 1939, Ni trường chùa Từ Đàm được thành
lập. Đây là cơ sở và khởi duyên Ni bộ đầu tiên được
hình thành trong cả nước. Sơn môn và hội Phật học giao
cho Ngài đặc trách việc đào tạo Ni chúng.
Năm
1942, Ngài được Giáo Hội Tăng Già Thừa Thiên bổ nhiệm
trú trì chùa Báo Quốc. Thời gian này Ngài tích cực hoạt
động cho việc phục hưng Phật Giáo và cùng các Tăng lữ
cấp tiến như Thượng tọa Mật Thể, Thiện Minh, Thiện Siêu
đề xướng cải tiến cách tu học, phổ cập cho phù hợp
với thời đại.
Năm
1944, các lớp Đại, Trung và Tiểu học của trường Sơn Môn
Phật Học được dời về chùa Linh Quang, Ngài được sơn
môn Tăng Già giao phó nhiệm vụ Giám viện kiêm trú trì chùa.
Cuối
năm 1945, chiến tranh Việt - Pháp lại bùng nổ sau cuộc Cách
Mạng Tháng Tám giành độc lập cho nước nhà, Ngài đã cùng
một số vị khác thành lập hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung
bộ và Thừa Thiên, và cho người đi khắp các tỉnh thành
lập hội Phật Giáo Cứu Quốc tại tỉnh. Vào năm 1946, chiến
sự xảy ra ngay tại thành phố Huế, nên Sơn Môn Tăng Già
Thừa Thiên quyết định dời trường sơn môn Phật Học về
chùa Báo Quốc, Ngài bàn giao nhiệm vụ trú trì chùa Linh Quang
lại cho Hòa thượng Mật Nguyện.
Năm
1947, mặt trận Huế vỡ, cảnh tang thương, chết chóc diễn
ra khắp thành thị đến nông thôn. Những Tăng tín đồ nào
đã thực sự đứng trong hàng ngũ kháng chiến thì rút ra chiến
khu. Những ai còn trong nội thành thì tập hợp nhau tại các
chùa để cầu nguyện cho đất nước sớm thanh bình. Sau đó,
các Phật sự được khôi phục dần dần. Cuối năm đó, Ngài
được giao nhiệm vụ mở lại Phật học đường Trung Việt
tại chùa Báo Quốc và tiếp tục làm Giám viện. Chính nơi
đây đã đào tạo được nhiều Tăng tài, lỗi lạc hữu dụng
cho các hoạt động Phật sự về sau. Từ giới đàn đầu
tiên tại đây, sau cơn khói lửa, do Ngài làm đàn đầu, đã
phục hồi ý nghĩa “Thất chứng” mà các trường giới thường
ít coi trọng.
Năm
1950, sau khi hội Việt Nam Phật Học thành lập(1) được ba
năm, Ngài được đại hội thường niên bầu làm Hội trưởng
thay cho cư sĩ Chơn An - Lê văn Định. Từ ngày có phong trào
chấn hưng Phật giáo tại Trung Việt năm 1932, đây là lần
đầu tiên chức Hội trưởng thuộc về Tăng sĩ.
Thống
nhất Phật giáo là nguyện vọng tha thiết nhất trong cuộc
đời tu hành của Ngài. Do đó, khi được giao nhiệm vụ đứng
đầu Hội Việt Nam Phật Học, Ngài liền vận động thống
nhất Phật giáo cả nước. Năm 1951, một đại hội gồm 51
đại biểu đại diện cho 6 tập đoàn Phật giáo, cả ba miền
Nam, Trung, Bắc họp tại chùa Từ Đàm ngày 06 tháng 5 dương
lịch, đã quyết nghị thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt
Nam, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của hàng Tăng sĩ và
cư sĩ đã từng ước ao thống nhất Phật giáo Việt Nam.
Năm
1952, trong chức vụ Ủy viên Hoằng pháp của Giáo Hội Tăng
Già Trung Việt, Ngài đã đặt viên đá cho ngôi trường Trung,
Tiểu học tư thục Bồ Đề đầu tiên của hội tại thành
nội Huế. Từ đó về sau các trường Bồ Đề từ bậc Tiểu
học đến bậc Trung học được lần lượt mở ở các tỉnh
hội khắp Trung Việt, lan vào cả Sài gòn.
Năm
1956, Đại hội kỳ II của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam họp
tại chùa Phước Hòa (Sài gòn), Ngài được bầu làm Ủy viên
Giáo dục. Cũng trong năm này, Phật học viện Nha Trang được
thành lập tại chùa Hải Đức trên núi Trại Thủy, Ngài được
giao nhiệm vụ Giám viện.
Để
có thêm tài chính yểm trợ ẩm thực cho Tăng sinh, Ngài đã
cử một số học Tăng vào Sài Gòn học riêng khoa chế biến
nước tương là một món ăn chay rất cần thiết và phổ biến
trong các chùa và dân gian mà nhu cầu hàng ngày rất lớn. Khi
số học Tăng này trở về, Ngài cho thành lập xưởng chế
biến nước tương đóng chai, lấy hiệu “Lá Bồ Đề” cung
cấp cho thị trường khắp Trung phần và Cao nguyên.
Phật
học viện Nha Trang chỉ đào tạo Tăng sinh đến bậc Trung
học, sau đó họ phải vào Sài Gòn theo học bậc Đại học.
Để giúp đỡ số Tăng sinh này có nơi ăn ở đi học mà vẫn
giữ được nếp sinh hoạt thiền môn, năm 1960 Ban Quản Trị
ủy cho Ngài vào Sài Gòn mua một sở đất (nay ở đường
Lê Quang Định) tại xã Hạnh Thông, quận Gò Vấp, xây dựng
tu viện Quảng Hương Già Lam. Nơi đây cũng là trú sở của
Ngài sau năm 1963 cho tới ngày viên tịch.
Năm
1962, Ngài dẫn đầu phái đoàn Phật Giáo miền Nam tham dự
Đại lễ thế giới Phật lịch 2500- ngày Đức Phật nhập
Niết Bàn tại thủ đô Vientaine Lào.
Năm
1963, sự kỳ thị tôn giáo xảy ra dưới chính quyền Ngô Đình
Diệm. Ngài trở về Huế cùng chư Tăng lãnh đạo cuộc đấu
tranh đòi hỏi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo.
Ngài bị bắt giam và đưa vào Sài Gòn. Khi trung tâm đầu não
của cuộc đấu tranh chuyển từ Huế vào Sài gòn, Ngài lại
tích cực tham gia. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ,
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất ra đời, Ngài được
cử vào Ban Dự thảo hiến chương và sau đó được bầu vào
chức Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp, kiêm Tổng vụ
Tài chánh. Với trách vụ này Ngài đã tổ chức được ba
cuộc hội nghị hoằng pháp (tại Phật học viện Nha Trang,
chùa Xá Lợi, chùa Ấn Quang), thành lập đoàn giảng sư phân
công tới các địa phương thuyết giảng Phật pháp, và thành
lập thêm được Phật học viện Phổ Đà ở Đà Nẵng.
Năm
1964, Ngài làm Viện trưởng viện Cao Đẳng Phật học đặt
tại chùa Pháp Hội, tiền thân của Viện Đại Học Phật
giáo Vạn Hạnh, Ngài còn chủ trương xuất bản các tập san
Tin Phật, Bát Nhã để hỗ trợ cho công tác hoằng pháp.
Năm
1965, Ngài đi hành hương chiêm bái các danh lam Phật tích ở
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, đồng thời để
mở rộng sự giao thiệp với các tổ chức Phật giáo tại
các nước này trên đường phụng sự Phật pháp.
Năm
1969, Ngài được Hội đồng Lưỡng viện Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất tấn phong pháp vị Hòa thượng. Cùng
năm này, Ngài khai Đại giới đàn tại Phật học viện Nha
Trang. Năm 1969, Ngài trùng tu Tổ đình Báo Quốc-Huế. Năm 1970
Ngài mở lớp Trung đẳng II chuyên khoa tại Phật học viện
Nha Trang, đến năm 1974 chuyển thành Viện Cao Đẳng Phật Học
Nha Trang, Hòa thượng Thiện Siêu được thỉnh cử làm Viện
trưởng.
Trong
Đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 5
và kỳ 6, Ngài được giao trách nhiệm hết sức quan trọng
và nặng nề là Viện trưởng Viện Hóa Đạo để thay thế
Hòa thượng Thích Thiện Hoa vừa viên tịch. Đây là giai đoạn
khó khăn nhất của đất nước cũng như Giáo Hội. Người
lãnh đạo lèo lái con thuyền Giáo Hội phải đủ nghị lực,
can trường và sáng suốt mới đi đúng hướng, đúng đạo
pháp được. Đến năm 1975, Ngài lại phải gánh thêm một
trách vụ nặng nề nữa, là xử lý thường vụ Viện Tăng
Thống. Năm 1976, Ngài mở Đại giới đàn Quảng Đức ở chùa
Ấn Quang và làm Đàn chủ.
Đất
nước đã được thống nhất, Nam Bắc một nhà. Trước thực
trạng đó, việc thống nhất Phật giáo hai miền là cần thiết.
Thấy được điều đó, ngày 23-01-1977 trong Đại hội kỳ
7 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Ngài đã
đưa ra thông bạch nêu lên nguyện vọng ấy cụ thể như sau:
Đại hội cần ủy cho Giáo hội Trung Ương tiếp tục vận
động thống nhất Phật Giáo cả nước trong tinh thần đạo
pháp và truyền thống dân tộc.
Năm
1980, Ngài khai Đại giới đàn Thiện Hòa tại chùa Ấn Quang
và Ngài làm Đàn chủ. Đây cũng là Đại giới đàn cuối
cùng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Và cũng
là giới đàn có số giới tử Tăng Ni đông nhất 1.500 người.
Sau
bao gian lao, vượt qua bao khó khăn trở ngại từ mọi phía,
Ngài đã được các hệ phái Phật giáo đề cử làm Trưởng
ban vận động thống nhất Phật giáo. Không lâu sau đó ngày
07-11-1981 Đại hội Thống nhất Phật giáo được tổ chức
tại chùa Quán Sứ - Hà Nội, thành lập Giáo Hội toàn quốc
với danh xưng “ Giáo Hội Phật giáo Việt Nam”. Ngài được
bầu làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương - nhiệm
kỳ I.
Trách
nhiệm Phật sự khó khăn cho nền Thống nhất Phật giáo hoàn
thành, đáng lẽ đã đến lúc Ngài lui về an trú tại chốn
già lam thanh tịnh. Nhưng Ngài đã không quản tuổi già sức
yếu, vẫn một lòng phụng sự đạo pháp. Ngài đã dẫn đầu
Đoàn đại biểu Phật giáo Việt Nam tham dự Đại hội lần
thứ 5 (1979), lần thứ 6 (1982) của Tổ chức Phật Giáo Châu
Á Vì Hòa Bình (ABCP) họp tại Mông Cổ. Năm 1980, Ngài làm
trưởng đoàn đại biểu Tôn Giáo Việt Nam dự hội nghị
các nhà Tôn Giáo Thế Giới vì hòa bình và giải trừ quân
bị, chống chiến tranh hạt nhân, tổ chức tại Nhật Bản.
Năm 1981, Ngài làm trưởng đoàn đại biểu Phật giáo Việt
Nam dự hội nghị các nhà hoạt động Tôn Giáo Thế Giới
vì hòa bình và sự sống, chống chiến tranh hạt nhân, tổ
chức tại Liên Xô.
Năm
1983, Ngài tham dự hội nghị các vị đứng đầu Phật giáo
5 nước Châu Á tổ chức tại thủ đô Veintaine Lào. Cũng năm
này, Ngài được cử làm Ủy viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban
Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Vào
những năm tháng cuối đời, sau khi đã đem bao tâm lực cống
hiến cho sự chấn hưng Phật giáo, cho sự phát triển và thống
nhất các hệ phái dưới một mái nhà Phật giáo, cho sự tu
hành thăng tiến của lớp hậu sinh, sức khỏe của Ngài có
phần suy giảm nhiều.
Ngày
02 tháng 3 năm Giáp Tý, tức ngày 02 tháng 4 năm 1984, sau một
cơn suy tim đột ngột, Ngài đã thâu thần viên tịch tại
Bệnh viện Thống Nhất, thọ 76 tuổi đời, 56 tuổi đạo.
Ngoài
những đóng góp Phật sự từ ngày xuất gia cho đến ngày
lãnh các trọng trách trong Giáo hội, Hòa thượng Thích Trí
Thủ còn để lại cho hậu thế nhiều sáng tác, dịch phẩm
có giá trị như:
- Kinh
Phổ Hiền.
-
Mẹ Hiền Quan Âm.
-
Kinh Vô Thường.
-
Kinh A Di Đà (thể thơ 4 chữ).
-
Pháp Môn Tịnh Độ.
-
Nghi Thức Phật Đản.
-
Tứ Phần Luật.
-
Nghi Thức Truyền Giới Tại Gia và Bồ Tát Thập Thiện.
-
Luật Tỳ Kheo.
-
Để trở thành người Phật tử.
-
Kinh Bất Tăng Bất Giảm.
-
Thường Bất Khinh Bồ Tát.
-
Phát Bồ Đề Tâm.
-
Thử vạch qui chế đào tạo Tăng tài.
-
Nghi thức tụng niệm hàng ngày của giới Phật tử.
-
Điều căn bản cho giới Phật tử mới quy y v.v...
(và
một số tác phẩm văn thơ khác.)
Nói
đến Hòa thượng, là nói đến sự nghiệp thống nhất Phật
giáo Việt Nam giữa các hệ phái, từng giai đoạn lịch sử
từ trước 1954 cho đến sau 1975 và cho đến khi hoàn thành
bản nguyện. Ngài là thuyền Bát Nhã đưa Phật giáo Việt
Nam bước qua lịch sử và làm nên lịch sử. Ngài đã đi qua,
nhưng lịch sử vẫn còn lại ngàn năm với công hạnh và hình
bóng Ngài trong lòng bao thế hệ kế thừa.
Chú
thích:
(1)
Hội Việt Nam Phật Học vốn là hậu thân của Hội An Nam
Phật Học, thành lập năm 1948 đặt trụ sở tại số 1B đường
Nguyễn Hoàng - Huế.
Nguồn:
Tiểu
Sử Danh Tăng Việt Nam Thế Kỷ XX - Phần I, Thích Đồng
Bổn
GIỔ ÔN NHỚ CHUYỆN XƯA
Bổn Sư của tôi là Hòa Thượng thượng GIẢI hạ TÂN vô cùng điềm đạm và phúc hậu.Thế nhưng sau 30-04-75 qua radio
tôi nghe bài diễn văn của ôn già lam lòng không vui về kể lại cho
ôn.Ôn đập chén trà vở tan trên bàn và đứng bật dậy và bảo "Tôi nói cho
ông biết: Kiến thức của ông bé nhỏ như con chim sâu.Tầm nhìn của ông
không quá bụi tre gai.Ôn Già Lam tuệ giác của ngài như chim ĐẠI
BÀN tầm nhìn của ngài bao quát cả thiên hà vũ trụ.Lấy kiến thức thô
thiển mà bình luận xúc phạm bậc đại nhân đọa địa ngục,thầy nắm tay tôi
kéo vào chánh điện thỉnh chuông bảo tôi sám hối.Sau khi sám hối ra ngài
mới ôn tồn dạy.Bật Đại Sĩ sẳn sàng chịu nhục để bóng cây còn che khuất
bao người.Bốn năm sau tôi vào Sài Gòn có dịp thân cận chùa Già Lam
mình mới biết thế nào là hạnh nguyện của những cây cao bóng cả trong
cuộc đời nhiểu nhương ô trược nầy./.
Thị Nguyên